Thông tin chi tiết
Tin báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015

 

 

Tóm tắt: Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã khắc phục được cơ bản những bất cập quy định về tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003. Tuy nhiên, vẫn còn những vấn đề liên quan đến việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố cần được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với tình hình mới.

Từ khóa: Tin báo về tội phạm; tố giác về tội phạm; kiến nghị khởi tố; Bộ luật Tố tụng hình sự.

Abstract: The Criminal Procedure Code of 2015 has substantially overcome the inadequacies of criminal information, denunciations, and petitions, which were considered as shortcomings in the Criminal Procedure Code of 2003. However, there are still issues in the applicable Code related to criminal information, criminal accusations and prosecution petitions that need to be reviewed and amended for further improvements so that it would be appropriate with the new situation.

Keywords: Criminal Information; crime accusations; prosecution petitions; the Criminal Procedure Code.

  

1. Một số quy định chung về tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố

Bộ luật Tố tụng Hình sự (TTHS) năm 2003 không đưa ra khái niệm về tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố. Do đó, đã dẫn đến những cách hiểu khác nhau về các khái niệm này. Theo quy định tại Điều 100 và Điều 101 Bộ luật TTHS năm 2003, chủ thể của tố giác về tội phạm phải là công dân, nhưng trên thực tế, tố giác về tội phạm không chỉ do công dân Việt Nam, mà còn do người nước ngoài cung cấp. Do đó, nếu chỉ quy định công dân Việt Nam mới có quyền tố giác tội phạm là chưa đầy đủ. Khắc phục được thiếu sót này, Bộ luật TTHS năm 2015 đã thay thế “tố giác của công dân” thành “tố giác của cá nhân” đểmở rộng diện người tố giác vềtội phạm. Vàcá nhân ở đây bao gồm cả công dân Việt Nam và người nước ngoài.

Đối với tin báo về tội phạm, Bộ luật TTHS năm 2003 quy định gồm có tin báo của cơ quan, tổ chức và tin báo trên các phương tiện thông tin đại chúng[1]. Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng cho thấy, tin báo là thông tin về vụ việc phạm tội, ngoài cơ quan, tổ chức báo tin, thì cá nhân cũng báo rất nhiều tin về vụ việc mà mình biết cho cơ quan có thẩm quyền giải quyết[2]. Do đó, Bộ luật TTHS năm 2015 đã bổ sung cả tin báo về tội phạm của cá nhân.

Từ thực tiễn tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, khoản 1, 2, 3 Điều 144 Bộ luật TTHS năm 2015 đưa ra khái niệm tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, cụ thể như sau:

Tố giác về tội phạm là việc cá nhân phát hiện và tố cáo hành vi có dấu hiệu tội phạm với cơ quan có thẩm quyền.

Tin báo về tội phạm là thông tin về vụ việc có dấu hiệu tội phạm do cơ quan, tổ chức, cá nhân thông báo với cơ quan có thẩm quyền hoặc thông tin về tội phạm trên phương tiện thông tin đại chúng.

Kiến nghị khởi tố là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền kiến nghị bằng văn bản và gửi kèm theo chứng cứ, tài liệu liên quan cho Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát có thẩm quyền xem xét, xử lý vụ việc có dấu hiệu tội phạm”.

Về hình thức của tố giác và tin báo về tội phạm, theo Điều 101 Bộ luật TTHS năm 2003[3], tố giác về tội phạm của công dân có thể bằng miệng hoặc bằng văn bản, còn tin báo về tội phạm của cơ quan, tổ chức phải được thể hiện bằng văn bản. Tuy nhiên, xét về mặt học thuật, việc sử dụng thuật ngữ “bằng miệng” chỉ phù hợp với văn nói và chưa bao quát hết được các trường hợp xảy ra[4]. Vì vậy, khoản 4 Điều 144 Bộ luật TTHS năm 2015 đã sửa đổi quy định này thành: “Tố giác, tin báo về tội phạm có thể bằng lời hoặc bằng văn bản”, tức là đã thay “bằng miệng” thành “bằng lời”. Theo đó, tin báo về tội phạm cũng có thể bằng lời hoặc bằng văn bản.

Ngoài ra, khoản 5 Điều 144 Bộ luật TTHS năm 2015 cũng đã bổ sung trách nhiệm của việc cố ý tố giác, báo tin về tội phạm sai sự thật. Tuy nhiên, như đã nêu ở trên, tố giác, tin báo về tội phạm có thể của cá nhân hoặc cơ quan, tổ chức, do đó nếu chỉ quy định trách nhiệm của “người nào”, tức là của cá nhân như trên là chưa đầy đủ. Để chặt chẽ hơn, cần bổ sung cả trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, do đó chúng tôi kiến nghị sửa đổi khoản 5 Điều 144 Bộ luật TTHS năm 2015 như sau:

“Cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân nào cố ý tố giác, báo tin về tội phạm sai sự thật thì tuỳ tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của luật”.

2. Trách nhiệm tiếp nhận và thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố

Khoản 2 Điều 145 Bộ luật TTHS năm 2015 quy định, cơ quan, tổ chức có trách nhiệm tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, gồm: a) Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố; b) Cơ quan, tổ chức khác tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm. Tuy nhiên, cùng với Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát thì cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra cũng là đầu mối tiếp nhận chủ yếu đối với nguồn tin về tội phạm (trừ kiến nghị khởi tố). Vì vậy, chúng tôi cho rằng, cần quy định riêng về trách nhiệm tiếp nhận đối với các cơ quan này trong Bộ luật để thể hiện được rõ vai trò của các cơ quan này, đồng thời là cơ sở pháp lý để văn bản dưới luật hướng dẫn cụ thể[5].

Trên cơ sở quy định trên của Bộ luật TTHS năm 2015, khoản 1 Điều 5 Thông tư liên tịch số 01/2017/TTLT-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNT-VKSNDTC ngày 29/12/2017 quy định sự phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền trong việc thực hiện một số quy định của Bộ luật TTHS năm 2015 về tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố đã quy định cụ thể các cơ quan, tổ chức có trách nhiệm tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm[6]. Với quy định này, cơ quan, tổ chức khác có trách nhiệm tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm có phạm vi rất rộng, bao gồm: Công an xã, phường, thị trấn; Đồn Công an, Trạm Công an; Tòa án các cấp; cơ quan báo chí và các cơ quan, tổ chức khác. Như vậy, cơ quan, tổ chức khác có trách nhiệm tiếp nhận không chỉ tố giác về tội phạm của cá nhân mà còn cả tin báo về tội phạm của cơ quan, tổ chức khác. Chúng tôi cho rằng, quy định này chưa hợp lý, bởi lẽ các cơ quan, tổ chức đều có quyền và nghĩa vụ báo tin về tội phạm như nhau; hơn nữa, nếu theo quy định này sẽ dẫn đến tình trạng đùn đẩy việc báo tin giữa các cơ quan, tổ chức này cho cơ quan có thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm. Do đó, cần quy định rõ theo hướng: Công an xã, phường, thị trấn; Đồn công an, Trạm công an; Tòa án các cấp; cơ quan báo chí có trách nhiệm tố giác, tin báo về tội phạm; các cơ quan, tổ chức khác chỉ có trách nhiệm tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm của cá nhân.

Ngoài ra, cùng với việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, khoản 4 Điều 145 Bộ luật TTHS năm 2015 đã quy định trách nhiệm của việc thông báo kết quả giải quyết này[7]. Quy định việc thông báo này cũng là một hình thức để cá nhân, cơ quan, tổ chức đã tố giác, báo tin và cơ quan nhà nước kiến nghị khởi tố giám sát việc giải quyết của cơ quan có thẩm quyền. Theo chúng tôi, cần bổ sung việc gửi kết quả giải quyết cho Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền. Bởi vì, Viện kiểm sát có nhiệm vụ, quyền hạn kiểm sát việc tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, và khoản 5 Điều 146 Bộ luật TTHS năm 2015 đã quy định về trách nhiệm thông báo việc tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố cho Viện kiểm sát[8]. Do đó, khoản 4 Điều 145 Bộ luật TTHS năm 2015 cần được sửa đổi như sau:

Cơ quan có thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố có trách nhiệm gửi kết quả giải quyết cho Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền và thông báo kết quả giải quyết cho cá nhân, cơ quan, tổ chức đã tố giác, báo tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố”.

3. Phục hồi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố

Cùng với quy định mới về tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, Điều 149 Bộ luật TTHS năm 2015 đã quy định về phục hồi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố[9]. Với quy định này, thẩm quyền ra quyết định phục hồi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố chỉ thuộc về cơ quan điều tra và cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Tuy nhiên, theo khoản 4 Điều 147 Bộ luật TTHS năm 2015[10], Viện kiểm sát cũng có quyền ra quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố[11]. Do đó, khi lý do tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố không còn, Viện kiểm sát cũng có quyền ra quyết định phục hồi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố. Nói cách khác, Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra và cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra đều có quyền ra quyết định phục hồi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố. Theo đó, chúng tôi kiến nghị sửa đổi khoản 1 Điều 149 Bộ luật TTHS năm 2015 như sau:

1. Khi lý do tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố không còn, cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra ra quyết định phục hồi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố. Thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố tiếp không quá 01 tháng kể từ ngày ra quyết định phục hồi…”.

Đồng thời, chúng tôi cho rằng, cần sửa đổi một số điều luật có liên quan theo hướng bổ sung quyền ra quyết định phục hồi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố cho các chủ thể tương ứng để đảm bảo tính thống nhất, chặt chẽ, cụ thể:

Thứ nhất, sửa đổi điểm a, khoản 2 Điều 36 Bộ luật TTHS năm 2015[12] như sau:

“2. Khi tiến hành tố tụng hình sự, Thủ trưởng Cơ quan điều tra có những nhiệm vụ, quyền hạn:

a) Quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố; quyết định phục hồi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố; quyết định khởi tố, không khởi tố, bổ sung hoặc thay đổi quyết định khởi tố vụ án; quyết định khởi tố, bổ sung hoặc thay đổi quyết định khởi tố bị can; quyết định nhập hoặc tách vụ án; quyết định ủy thác điều tra;...”.

Thứ hai, sửa đổi điểm b, khoản 2 Điều 39 Bộ luật TTHS năm 2015[13] như sau:

“2. Khi tiến hành tố tụng hình sự đối với tội phạm ít nghiêm trọng trong trường hợp phạm tội quả tang, chứng cứ và lý lịch người phạm tội rõ ràng, những người quy định tại các điểm a, b, c, d và đ khoản 2 Điều 35 của Bộ luật này có những nhiệm vụ, quyền hạn: ...

b) Quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố; quyết định phục hồi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố; quyết định khởi tố, không khởi tố, thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án; quyết định khởi tố, thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can”.

Thứ ba, sửa đổi điểm b, khoản 3 Điều 39 như sau:

“3. Khi tiến hành tố tụng hình sự đối với tội phạm nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng hoặc tội phạm ít nghiêm trọng nhưng phức tạp, những người được quy định tại các điểm a, b, c, d và đ khoản 2 Điều 35 của Bộ luật này có những nhiệm vụ, quyền hạn: ...

b) Quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố; quyết định phục hồi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố; quyết định khởi tố, không khởi tố, thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án”.

Thứ tư, sửa đổi điểm b, khoản 2 Điều 40 Bộ luật TTHS năm 2015[14] như sau:

“2. Khi tiến hành tố tụng hình sự, những người được quy định tại điểm e và điểm g khoản 2 Điều 35 của Bộ luật này có những nhiệm vụ, quyền hạn: ...

b) Quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết nguồn tin về tội phạm; quyết định phục hồi giải quyết nguồn tin về tội phạm; quyết định khởi tố, không khởi tố, thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án”.

Thứ năm, sửa đổi điểm b, khoản 2 Điều 41 Bộ luật TTHS năm 2015[15] như sau:

“2. Khi thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự, Viện trưởng Viện kiểm sát có những nhiệm vụ, quyền hạn:

b) Quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết nguồn tin về tội phạm; quyết định phục hồi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố; quyết định khởi tố, không khởi tố, bổ sung hoặc thay đổi quyết định khởi tố vụ án; quyết định khởi tố, bổ sung hoặc thay đổi quyết định khởi tố bị can; quyết định nhập, tách vụ án”./.

 

[1] Khoản 2 và khoản 3 Điều 100 Bộ luật TTHS năm 2003.

[2] Nguyễn Ngọc Anh (chủ biên), Ngô Đức Thắng, Đào Anh Tới, Lê Hà Thắng, Phan Dương Điệp, Tài liệu tập huấn chuyên sâu Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Nxb. Thanh niên, Hà Nội, 2016, tr.134.

[3] Công dân có thể tố giác tội phạm với Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án hoặc với các cơ quan khác, tổ chức. Nếu tố giác bằng miệng thì cơ quan, tổ chức tiếp nhận phải lập biên bản và có chữ ký của người tố giác. Cơ quan, tổ chức khi phát hiện hoặc nhận được tố giác của công dân phải báo tin ngay về tội phạm cho Cơ quan điều tra bằng văn bản.

[4] Chẳng hạn như công dân gọi điện thoại đến cơ quan Công an để tố giác tội phạm thì đây là tố giác bằng miệng hay bằng điện thoại?.

[5] Điểm b, khoản 1 Điều 5 Thông tư liên tịch số 01/2017/TTLT-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNT-VKSNDTC, ngày 29/12/2017 quy định việc phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền trong việc thực hiện một số quy định của Bộ luật TTHS năm 2015 về tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, cũng đã quy định về trách nhiệm tiếp nhân tố giác, tin báo về tội phạm của cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra.

[6] Các cơ quan, tổ chức có trách nhiệm tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm:

a) Cơ quan điều tra;

b) Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra;

c) Viện kiểm sát các cấp;

d) Các cơ quan, tổ chức quy định tại điểm b khoản 2 Điều 145 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 gồm: Công an xã, phường, thị trấn, Đồn công an, Trạm công an; Tòa án các cấp; cơ quan báo chí và các cơ quan, tổ chức khác.

[7] “Cơ quan có thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố có trách nhiệm thông báo kết quả giải quyết cho cá nhân, cơ quan, tổ chức đã tố giác, báo tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố”.

[8] Trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có trách nhiệm thông báo bằng văn bản về việc tiếp nhận đó cho Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền.

[9] Khi lý do tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố không còn, cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra ra quyết định phục hồi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố. Thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố tiếp không quá 01 tháng kể từ ngày ra quyết định phục hồi.

Trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày ra quyết định phục hồi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải gửi quyết định phục hồi cho Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền, cơ quan, tổ chức, cá nhân đã tố giác, báo tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố.

[10] Trình tự, thủ tục, thời hạn Viện kiểm sát giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố được thực hiện theo quy định tại Điều này

[11] 1. Trong thời hạn 20 ngày kể từ ngày nhận được tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải kiểm tra, xác minh và ra một trong các quyết định:

a) Quyết định khởi tố vụ án hình sự;

b) Quyết định không khởi tố vụ án hình sự;

c) Quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố.

[12] Quy định về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra.

[13] Quy định nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của cấp trưởng, cấp phó, cán bộ điều tra của các cơ quan của Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển, Kiểm ngư được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra.

[14] Quy định nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của cấp trưởng, cấp phó, cán bộ điều tra của các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra.

[15] Quy định nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát.

 

(Nguồn tin: Bài viết được đăng tải trên Ấn phẩm Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 05 (405), tháng 3/2020.)

http://www.lapphap.vn/Pages/tintuc/tinchitiet.aspx?tintucid=210531

 





Các tin khác

Hỗ trợ trực tuyến
 ĐT : 0222 3875002
Fax : 0222 3874300
bantiepcongdanbacninh@gmail.com
Trao đổi - Góp ý
Liên kết