Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ người tố cáo, tố giác, phát hiện hành vi tham nhũng, tiêu cực
Đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, được Đảng và Nhà nước ta quan tâm chỉ đạo thực hiện. Tố cáo, tố giác, đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực là trách nhiệm và cũng là công cụ pháp lý quan trọng để người dân tham gia xây dựng, quản lý Nhà nước và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
1. Đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, được Đảng và Nhà nước ta quan tâm chỉ đạo thực hiện. Tố cáo, tố giác, đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực là trách nhiệm và cũng là công cụ pháp lý quan trọng để người dân tham gia xây dựng, quản lý Nhà nước và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Ngày 10/01/2019, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 27-CT/TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo vệ người phát hiện, tố giác, đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực. Cùng với Luật Tố cáo, Luật Phòng, chống tham nhũng và các văn bản hướng dẫn thi hành, Chỉ thị số 27-CT/TW là cơ sở chính trị - pháp lý quan trọng để tiếp tục thực hiện có hiệu quả các quy định về phát hiện, xử lý tham nhũng cũng như pháp luật về tố cáo. Bảo vệ người tố cáo, tố giác hành vi vi phạm pháp luật là trách nhiệm của Nhà nước, giúp cho việc giải quyết tố cáo, tố giác phát huy hiệu quả, đồng thời khuyến khích, động viên người dân phát hiện và tố cáo những hành vi vi phạm pháp luật, nhất là các hiện tượng tham nhũng, tiêu cực, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức, cá nhân; qua tố cáo, tố giác hành vi tham nhũng, tiêu cực giúp các cơ quan nhà nước phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm minh các hành vi vi phạm.
2. Tố cáo là một quyền dân chủ, được Hiến pháp quy định và được thể chế hóa trong các văn bản pháp luật. Bảo vệ người tố cáo, tố giác, phát hiện hành vi tham nhũng, tiêu cực bao gồm nhiều biện pháp pháp lý, được quy định trong nhiều văn bản như Luật Tố cáo, Luật Phòng, chống tham nhũng và các văn bản hướng dẫn thi hành. Các quy định này đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng, đồng bộ để người dân thực hiện quyền tố cáo, tố giác các hành vi vi phạm và các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền thực hiện giải quyết tố cáo, bảo vệ người tố cáo theo quy định.
Luật Tố cáo quy định tại Chương V về bảo vệ người tố cáo và một số điều quy định mang tính nguyên tắc về trách nhiệm bảo vệ người tố cáo. Luật Phòng, chống tham nhũng quy định nhiều nội dung liên quan đến việc tố cáo, tố giác hành vi tham nhũng và bảo vệ người tố cáo, tố giác hành vi tham nhũng. Luật Phòng, chống tham nhũng quy định mang tính nguyên tắc: Trong phòng, chống tham nhũng, người dân có quyền phát hiện, phản ánh, tố cáo, tố giác, báo tin về hành vi tham nhũng và được bảo vệ, khen thưởng theo quy định của pháp luật; có quyền kiến nghị với cơ quan nhà nước hoàn thiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng và giám sát việc thực hiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng; tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong xác minh tài sản, thu nhập. Các cơ quan, tổ chức, đơn vị, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, có trách nhiệm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người phản ánh, báo cáo, tố cáo, tố giác, báo tin, cung cấp thông tin về hành vi tham nhũng; tiếp nhận, xử lý kịp thời phản ánh, báo cáo, tố cáo, tố giác, tin báo về hành vi tham nhũng…
Luật Phòng, chống tham nhũng cũng quy định nghiêm cấm hành vi đe dọa, trả thù, trù dập, tiết lộ thông tin về người phản ánh, báo cáo, tố cáo, tố giác, báo tin, cung cấp thông tin về hành vi tham nhũng; lợi dụng việc phản ánh, báo cáo, tố cáo, tố giác, báo tin, cung cấp thông tin về hành vi tham nhũng để vu khống cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân khác…
Luật Phòng, chống tham nhũng dành mục 3 Chương III quy định về phản ánh, tố cáo, báo cáo về hành vi tham nhũng. Tại Điều 65 quy định: Cá nhân, tổ chức có quyền phản ánh về hành vi tham nhũng, cá nhân có quyền tố cáo về hành vi tham nhũng theo quy định của pháp luật; cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có thẩm quyền khi nhận được phản ánh, tố cáo về hành vi tham nhũng phải xem xét, xử lý kịp thời và áp dụng các biện pháp bảo vệ người phản ánh, tố cáo; việc tiếp nhận, giải quyết tố cáo về hành vi tham nhũng được thực hiện theo quy định của pháp luật về tố cáo; việc tiếp nhận, xử lý phản ánh về hành vi tham nhũng được thực hiện theo quy định của pháp luật về tiếp công dân.
Luật Phòng, chống tham nhũng quy định mang tính nguyên tắc về bảo vệ người tố cáo hành vi tham nhũng, tiêu cực: Việc bảo vệ người tố cáo hành vi tham nhũng được thực hiện theo quy định của pháp luật về tố cáo. Người phản ánh, báo cáo về hành vi tham nhũng được áp dụng các biện pháp bảo vệ như bảo vệ người tố cáo. Quy định này chỉ xác định việc bảo vệ người tố cáo hành vi tham nhũng, tiêu cực mà không xác định việc bảo vệ người phản ánh, kiến nghị, phát hiện hành vi tham nhũng, tiêu cực. Do đó đây có thể là một khoảng trống pháp lý gây khó khăn khi áp dụng pháp luật để bảo vệ người phản ánh, kiến nghị, đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực.
Luật Tố cáo và các văn bản hướng dẫn thi hành đã quy định cụ thể về người được bảo vệ bao gồm: người tố cáo, vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người tố cáo. Đồng thời xác định rõ phạm vi bảo vệ gồm: bảo vệ bí mật thông tin của người tố cáo, bảo vệ vị trí công tác, việc làm, tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự, nhân phẩm của người được bảo vệ. Để cụ thể hóa các nội dung này, Chính phủ và các Bộ, ngành có liên quan đã ban hành các văn bản hướng dẫn và quy định cụ thể về thẩm quyền, trình tự, thủ tục và các biện pháp bảo vệ người tố cáo. Ngày 10/4/2019, Chính phủ ban hành Nghị định số 31/2019/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp tổ chức thi hành Luật Tố cáo. Theo đó, khi nhận được văn bản đề nghị áp dụng biện pháp bảo vệ của người tố cáo thì người giải quyết tố cáo có trách nhiệm xem xét, đánh giá căn cứ, tính xác thực của đề nghị bảo vệ và quyết định áp dụng biện pháp bảo vệ theo thẩm quyền. Trường hợp không thuộc thẩm quyền thì đề nghị hoặc yêu cầu cơ quan có thẩm quyền áp dụng biện pháp bảo vệ. Trường hợp khẩn cấp, người giải quyết tố cáo đề nghị hoặc yêu cầu cơ quan có thẩm quyền áp dụng biện pháp bảo vệ ngay lập tức, sau đó gửi văn bản đến cơ quan có thẩm quyền áp dụng biện pháp bảo vệ. Khi nhận được đề nghị hoặc yêu cầu của người giải quyết tố cáo thì cơ quan có thẩm quyền căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của mình xem xét, quyết định áp dụng biện pháp bảo vệ theo quy định và thông báo bằng văn bản cho người giải quyết tố cáo, người được bảo vệ.
Để hướng dẫn cụ thể về việc bảo vệ bí mật thông tin của người tố cáo, bảo vệ vị trí công tác, việc làm, tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự, nhân phẩm của người tố cáo, vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người tố cáo, Thanh tra Chính phủ, Bộ Nội vụ, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Công an đã ban hành các Thông tư quy định chi tiết về các nội dung này. Ngày 01/10/2021, Thanh tra Chính phủ đã ban hành Thông tư số 04/2021/TT-TTCP quy định quy trình tiếp công dân và Thông tư số 05/2021/TT-TTCP quy định quy trình xử lý đơn khiếu nại, đơn tố cáo, đơn kiến nghị, phản ánh (hiện nay 02 Thông tư này đang được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp). Trong đó quy định cụ thể trình tự, thủ tục tiếp nhận, phân loại, xử lý nội dung tố cáo; trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, đơn vị trong việc trực tiếp tiếp công dân đến tố cáo; trách nhiệm của Ban tiếp công dân, công chức, viên chức được giao nhiệm vụ giúp người đứng đầu cơ quan, đơn vị tiếp công dân và trách nhiệm của cơ quan, đơn vị có liên quan. Trong quá trình xử lý đơn, cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có trách nhiệm giữ bí mật thông tin của người tố cáo, nội dung tố cáo theo quy định của pháp luật. Trường hợp người tố cáo đề nghị được bảo vệ thì người xử lý đơn báo cáo người đứng đầu xem xét, giải quyết theo quy định của pháp luật.
Ngày 21/7/2020, Bộ Nội vụ ban hành Thông tư số 03/2020/TT-BNV quy định chi tiết về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, biện pháp bảo vệ vị trí công tác của người tố cáo là cán bộ, công chức, viên chức. Thông tư quy định, bảo vệ vị trí công tác của người tố cáo là cán bộ, công chức, viên chức là việc bảo vệ công việc gắn với chức danh, chức vụ, vị trí việc làm của cán bộ, công chức; công việc hoặc nhiệm vụ gắn với chức danh nghề nghiệp hoặc chức vụ quản lý của viên chức trong quá trình giải quyết tố cáo. Tổ chức, đơn vị làm công tác tổ chức của cơ quan, tổ chức, đơn vị thực hiện biện pháp bảo vệ vị trí công tác có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với tổ chức công đoàn, ban thanh tra nhân dân và các tổ chức khác cùng cấp trong việc thực hiện bảo vệ vị trí công tác của người tố cáo là cán bộ, công chức, viên chức.
Thông tư số 03/2020/TT-BNV cũng quy định rõ việc không thực hiện điều động, luân chuyển, biệt phái, chuyển đổi vị trí việc làm, phân công công việc khác đối với người tố cáo là cán bộ, công chức, viên chức trong thời gian được bảo vệ, trừ các trường hợp thực hiện việc định kỳ chuyển đổi vị trí công tác theo quy định; được sự đồng ý của người tố cáo là cán bộ, công chức, viên chức; theo yêu cầu bằng văn bản của cơ quan có thẩm quyền giải quyết tố cáo. Bên cạnh đó, không xử lý kỷ luật người tố cáo là cán bộ, công chức, viên chức trong thời gian được bảo vệ, trừ trường hợp người đó có hành vi vi phạm không liên quan đến lĩnh vực tố cáo.
Ngày 15/10/2020, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành Thông tư số 08/2020/TT-BLĐTBXH hướng dẫn về bảo vệ việc làm của người tố cáo là người làm việc theo hợp đồng lao động. Thông tư quy định về trình tự, thủ tục bảo vệ việc làm của người tố cáo, thân nhân của người tố cáo là người làm việc theo hợp đồng lao động; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc bảo vệ việc làm của người được bảo vệ.
Thông tư quy định trách nhiệm của Ủy ban nhân dân các cấp, người sử dụng người lao động, tổ chức đại diện người lao động và cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong việc bảo vệ việc làm của người tố cáo. Người sử dụng người lao động không được phân biệt đối xử về việc làm đối với người được bảo vệ; không được trả thù, trù dập, đe dọa làm ảnh hưởng đến việc làm, các khoản thu nhập và lợi ích hợp pháp khác từ việc làm của người được bảo vệ; đồng thời phải thực hiện kịp thời, đầy đủ các biện pháp bảo vệ việc làm cho người được bảo vệ theo yêu cầu, đề nghị của cơ quan quyết định áp dụng biện pháp bảo vệ. Tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở có trách nhiệm giám sát người sử dụng lao động trong việc chấp hành các biện pháp bảo vệ việc làm cho người được bảo vệ theo yêu cầu, đề nghị của cơ quan quyết định áp dụng biện pháp bảo vệ. Trường hợp người sử dụng lao động không chấp hành biện pháp bảo vệ việc làm cho người được bảo vệ thì Ban chấp hành công đoàn cơ sở hoặc tổ chức đại diện hợp pháp khác của người lao động tại cơ sở phải có ý kiến bằng văn bản với người sử dụng lao động, đồng thời báo cáo ngay sự việc với cơ quan ra quyết định áp dụng biện pháp bảo vệ và công đoàn cấp trên trực tiếp hoặc tổ chức đại diện hợp pháp cấp trên trực tiếp của người lao động để kịp thời xử lý và có biện pháp bảo vệ việc làm cho người được bảo vệ.
Ngày 29/12/2020, Bộ Công an ban hành Thông tư số 145/2020/TT-BCA quy định thẩm quyền, trình tự, thủ tục, biện pháp bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự, nhân phẩm của người tố cáo về hành vi tham nhũng, lãng phí. Thông tư quy định cụ thể, chi tiết, đồng bộ, phân rõ trách nhiệm cho tổ chức, cá nhân, bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự, nhân phẩm của người tố cáo về hành vi tham nhũng, lãng phí; tạo điều kiện thuận lợi trong việc tiếp nhận, xử lý, giải quyết yêu cầu được bảo vệ tính mạng sức khỏe, tài sản, danh dự, nhân phẩm của người tố cáo về hành vi tham nhũng, lãng phí, tiêu cực và có chế tài xử lý.
3. Các quy định pháp luật nêu trên đã tạo cơ sở pháp lý đồng bộ cho việc thực hiện quyền tố cáo, tố giác, phát hiện hành vi tham nhũng, tiêu cực; góp phần quan trọng vào công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực mà Đảng, Nhà nước và cả hệ thống chính trị đang nỗ lực thực hiện trong thời gian qua. Tuy nhiên, cần tổng kết, đánh giá các quy định và việc thực hiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng, về tố cáo và pháp luật có liên quan để tiếp tục hoàn thiện các quy định này, đáp ứng đầy đủ tinh thần của Chỉ thị số 27-CT/TW ngày 10/01/2019 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo vệ người phát hiện, tố giác, người đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, Chiến lược quốc gia về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực và gần đây là Quyết định 164-QĐ/TW ngày 06/6/2024 của Bộ Chính trị về Quy trình giải quyết tố cáo đối với tổ chức đảng trực thuộc Trung ương và đảng viên là cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý. Một số nội dung cần tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện bao gồm:
- Nghiên cứu, bổ sung các quy định về biện pháp bảo đảm thực hiện quy định về bảo vệ người tố cáo; động viên, khen thưởng kịp thời người tố cáo đúng, cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức làm tốt công tác bảo vệ người tố cáo; có sự tương thích trong quy định về thời hiệu xử lý kỷ luật giữa Luật Cán bộ, công chức, Luật Viên chức với Luật Phòng, chống tham nhũng.
- Nghiên cứu, sửa đổi quy định của Luật Tố cáo năm 2018 theo hướng bổ sung thêm người được bảo vệ là người phát hiện, kiến nghị, phản ánh, cung cấp các thông tin về các hành vi vi phạm pháp luật, hành vi tham nhũng, tiêu cực. Điều này để bảo đảm đáp ứng yêu cầu thực tiễn cũng như sự đồng bộ giữa Luật Tố cáo và Luật Phòng, chống tham nhũng và các quy định có liên quan. Đồng thời nghiên cứu, bổ sung thêm quy định về tiếp nhận, xử lý, giải quyết và bảo vệ người kiến nghị, cung cấp thông tin về hành vi có biểu hiện tham nhũng, tiêu cực, lãng phí trong Luật Phòng, chống tham nhũng; có quy định dẫn chiếu việc bảo vệ người kiến nghị, phản ánh, cung cấp thông tin về hành vi tham nhũng, tiêu cực, lãng phí được thực hiện theo Luật Tố cáo.
- Nghiên cứu, quy định cụ thể hơn về trách nhiệm của người tố cáo trong việc báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật của bất kỳ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Việc xác định hành vi vi phạm pháp luật và gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại là một việc khó do không phải người dân nào cũng có am hiểu pháp luật. Đa số việc tố cáo mới chỉ dừng lại ở việc báo về hành vi mà theo chủ quan của người dân là vi phạm pháp luật mà không nêu đủ các chứng cứ chứng minh để cung cấp cho người giải quyết tố cáo.
- Nghiên cứu quy định cụ thể, làm rõ các tiêu chí về việc bố trí công tác khác cho người được bảo vệ để bảo đảm áp dụng thống nhất trên thực tế cũng như tránh việc lợi dụng để trù dập người tố cáo. Hiện nay theo quy định tại Điều 57 của Luật Tố cáo về biện pháp bảo vệ vị trí công tác, việc làm thì người có thẩm quyền “Xem xét bố trí công tác khác cho người được bảo vệ nếu có sự đồng ý của họ để tránh bị trù dập, phân biệt đối xử”. Tuy nhiên, việc bố trí công tác khác cho người được bảo vệ cần có tiêu chí cụ thể để tránh việc lợi dụng biện pháp bảo vệ người tố cáo để thực hiện luân chuyển người tố cáo đến những vị trí công tác khác không phù hợp với chuyên môn, nghiệp vụ, ít có cơ hội phát triển như một hình thức trù dập người tố cáo. Mặc dù xem xét bố trí công tác khác cho người được bảo vệ phải được sự đồng ý của họ nhưng nếu không đồng ý với vị trí công tác khác thì việc bố trí công tác khác sẽ không được thực hiện và người tố cáo vẫn sẽ phải làm việc ở vị trí cũ và có nguy cơ bị trù dập, trả thù.
- Nghiên cứu, quy định thống nhất, đầy đủ về bảo vệ bí mật thông tin của người tố cáo. Tại Luật Tố cáo và Nghị định số 31/2019/NĐ-CP quy định cụ thể về bảo vệ họ tên, địa chỉ, bút tích của người tố cáo và những thông tin khác có thể làm lộ danh tính của người tố cáo. Nội dung này cũng được đưa vào Danh mục bí mật nhà nước độ mật của ngành Thanh tra theo Quyết định số 774/QĐ-TTg ngày 05/6/2020 của Thủ tướng Chính phủ về danh mục bí mật nhà nước thuộc lĩnh vực thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng. Tuy nhiên, các quy định này chỉ tập trung bảo vệ người tố cáo và một số đối tượng thân thích của người tố cáo (vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi người tố cáo) mà chưa có những biện pháp, cơ chế bảo vệ bí mật thông tin cho người làm chứng trong tố cáo, những đối tượng trực tiếp, gián tiếp cung cấp thông tin liên quan đến tố cáo.
Bên cạnh đó, cần quy định thống nhất giữa “tên, địa chỉ, bút tích của người tố cáo và thông tin khác làm lộ danh tính người tố cáo” theo quy định của Luật Tố cáo và “thông tin về người tố cáo, tố giác, cung cấp thông tin về hành vi tham nhũng” theo quy định của Luật Phòng, chống tham nhũng; cần làm rõ “thông tin về người tố cáo, tố giác…” có bao gồm tên, địa chỉ, bút tích hay không?
4. Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ người tố cáo là yêu cầu, đòi hỏi khách quan từ thực tiễn cũng như nhằm thể chế hóa các chủ trương của Đảng, Nhà nước về công tác này. Bảo vệ có hiệu quả người tố cáo, tố giác, phản ánh về tham nhũng, tiêu cực cần dựa trên các quy định pháp luật đầy đủ, cụ thể và thống nhất giữa Luật Phòng, chống tham nhũng, Luật Tố cáo và pháp luật có liên quan. Bên cạnh việc bảo vệ người tố cáo, cần đẩy mạnh việc khen thưởng người tố cáo, vì hành động dũng cảm và trách nhiệm công dân của mình đối với Nhà nước. Bảo vệ và khen thưởng người tố cáo, tố giác, phát hiện hành vi tham nhũng, tiêu cực góp phần quan trọng vào việc thực hiện có hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực mà Đảng, Nhà nước ta đang nỗ lực thực hiện.
TS. Trần Văn Long
Phó Vụ trưởng Vụ Pháp chế, Thanh tra Chính phủ
(Nguồn: http://www.issi.gov.vn/News/NewsEventDetail.aspx?7022)