Thông tin chi tiết
Một số vấn đề về tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết khiếu nại, tố cáo

 

Trong tiếng Việt, “đình chỉ” là “ngừng lại hoặc làm cho phải ngừng lại một thời gian hay vĩnh viễn” . Như vậy, theo từ điển tiếng Việt thì thuật ngữ “đình chỉ” có thể hiểu bao gồm cả “tạm đình chỉ” và “đình chỉ”. Dưới góc độ pháp lý, “đình chỉ", có nghĩa là tạm dừng hoặc ngừng hẳn một hoạt động nào đó theo quyết định của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. Đình chỉ có thể được áp dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau như tư pháp, hành chính hoặc lao động. “Tạm đình chỉ” là khái niệm chỉ việc tạm thời dừng một hoạt động, công việc nào đó trong một khoảng thời gian nhất định.

Khác với "đình chỉ" (có thể mang tính chất lâu dài hoặc vĩnh viễn), "tạm đình chỉ" chỉ mang tính tạm thời, khi các vấn đề liên quan được giải quyết thì hoạt động hoặc công việc có thể được tiếp tục.

Trong thực tiễn, các tình huống dẫn đến việc phải “tạm đình chỉ” (đình chỉ có thời hạn) hay “đình chỉ” thực hiện một hoạt động của cơ quan có thẩm quyền rất đa dạng. Tuy nhiên, về bản chất “tạm đình chỉ” thường dùng để chỉ việc “đình chỉ có thời hạn” còn “đình chỉ” là thể hiện một quyết định làm chấm dứt một quan hệ pháp luật cụ thể. Việc “tạm đình chỉ” và “đình chỉ” xuất hiện trong quá trình hoạt động đang diễn ra trước khi có kết quả cuối cùng mà mục đích của hoạt động đó hướng tới.

Như vậy có thể hiểu Tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết khiếu nại, tố cáo là việc người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo quyết định chấm dứt hoặc tạm dừng việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong một khoảng thời gian nhất định khi có căn cứ cho rằng việc giải quyết khiếu nại, tố cáo không có đủ cơ sở hoặc do các điều kiện khách quan khiến việc giải quyết khiếu nại, tố cáo không thể tiếp tục thực hiện theo quy trình thông thường.

Mặc dù Luật Khiếu nại đã có quy định về đình chỉ giải quyết khiếu nại (Điều 10) nhưng thực tiễn thi hành đã phát sinh các tình huống mà luật chưa dự liệu, khiến công tác giải quyết khiếu nại gặp những khó khăn nhất định. Chẳng hạn người khiếu nại khiếu nại quyết định hành chính của cơ quan nhà nước; trong quá trình thụ lý, xác minh khiếu nại, cơ quan, người có thẩm quyền đã ban hành quyết định hành chính bị khiếu nại, nhận thấy quyết định hành chính của mình không đúng quy định của pháp luật nên đã chủ động thu hồi, hủy bỏ quyết định và quyết định này chưa gây thiệt hại cho người khiếu nại và các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có liên quan. Do đối tượng bị khiếu nại không còn và chưa gây thiệt hại cho người khiếu nại thì người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại có thể ban hành quyết định đình chỉ việc giải quyết khiếu nại và thông báo cho người khiếu nại được biết. Hoặc trường hợp thứ hai, sau khi người có thẩm quyền thụ lý giải quyết khiếu nại và giao xác minh khiếu nại nhưng người khiếu nại đột nhiên mất tích, không thể liên lạc hoặc người khiếu nại vì một lý do nào đó mà không chịu hợp tác với người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại hoặc tổ xác minh khiếu nại để cung cấp thông tin, tài liệu, chứng cứ có liên quan đến nội dung khiếu nại, dẫn đến vụ việc khiếu nại không đủ cơ sở để xem xét, giải quyết.

Bên cạnh đó, Luật Khiếu nại tuy đã có quy định về đình chỉ giải quyết khiếu nại nhưng luật và các văn bản hướng dẫn thi hành lại không có các quy định về tạm đình chỉ giải quyết khiếu nại. Trong thực tế giải quyết khiếu nại, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thường gặp phải những trường hợp cần tạm đình chỉ giải quyết vụ việc như có nội dung cần trưng cầu giám định nhưng thời gian giám định kéo dài; vụ việc phải đối thoại, nhưng người khiếu nại xin hoãn có lý do chính đáng; trường hợp dịch bệnh, thiên tai dẫn tới không thực hiện được quá trình xác minh giải quyết khiếu nại… 

Luật Tố cáo đã quy định về tạm đình chỉ, đình chỉ việc giải quyết tố cáo tuy nhiên cũng chưa đầy đủ, dự liệu được hết các tình huống phát sinh trong thực tiễn.

1. Ý nghĩa của việc tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết khiếu nại, tố cáo

Việc tạm đình chỉ và đình chỉ giải quyết khiếu nại, tố cáo không chỉ giúp quá trình xử lý minh bạch, đúng pháp luật mà còn bảo vệ quyền và lợi ích của các bên liên quan, đảm bảo sự công bằng và hiệu quả trong quản lý nhà nước. Cụ thể:

Thứ nhất, giúp rút ngắn thời gian giải quyết bằng việc bỏ qua các thủ tục không cần thiết khi các điều kiện cho thấy vụ việc khiếu nại, tố cáo đã không còn đủ cơ sở để tiếp tục giải quyết.

Thứ hai, tránh được tình trạng giải quyết các vụ việc khiếu nại, tố cáo vội vàng, thiếu căn cứ. Khi có những yếu tố mới phát sinh trong quá trình giải quyết như cần chờ kết quả của một vụ việc liên quan hoặc các thông tin bổ sung, việc tạm đình chỉ giúp đảm bảo tính chính xác và công bằng trong việc xử lý.

Thứ ba, đảm bảo thời gian hợp lý trong giải quyết các vụ việc khiếu nại, tố cáo.

Thứ tư, bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của các bên bao gồm người khiếu nại, người tố cáo, người bị tố cáo và chủ thể có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo.

Thứ năm, ngăn ngừa được những khiếu nại, tố cáo kéo dài, vượt cấp hay những vi phạm về thời hạn giải quyết khiếu nại, tố cáo của cơ quan, cá nhân có thẩm quyền.

Thứ sáu, chế định về tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết khiếu nại, tố cáo thể hiện sự phát triển, hoàn thiện của pháp luật về khiếu nại, tố cáo.

2. Hệ quả pháp lý của việc tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết khiếu nại, tố cáo

Mặc dù việc tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết khiếu nại, tố cáo có nhiều ý nghĩa quan trọng trong thực tiễn nhưng những hệ quả pháp lý của nó cũng cần được nhận diện rõ ràng.

a. Đối với trường hợp tạm đình chỉ giải quyết khiếu nại, tố cáo

Vụ việc khiếu nại, tố cáo không bị hủy bỏ, đóng hồ sơ mà tiếp tục được theo dõi, xử lý.

- Khi lý do tạm đình chỉ không còn thì cơ quan có thẩm quyền ra quyết định tiếp tục giải quyết vụ việc khiếu nại, tố cáo và hủy bỏ quyết định tạm đình chỉ giải quyết khiếu nại, tố cáo.

- Trong thời gian tạm đình chỉ giải quyết khiếu nại, tố cáo người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo có trách nhiệm theo dõi, đôn đốc cơ quan, tổ chức, cá nhân khắc phục những lý do dẫn tới tạm đình chỉ trong thời gian ngắn nhất để kịp thời đưa vụ việc khiếu nại, tố cáo ra giải quyết.

b. Đối với trường hợp đình chỉ giải quyết khiếu nại, tố cáo

Hậu quả của việc đình chỉ giải quyết khiếu nại có thể dẫn tới gồm:

Thứ nhất, chấm dứt trách nhiệm giải quyết của cơ quan có thẩm quyền. Khi đã ra quyết định đình chỉ, cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân có thẩm quyền không còn nghĩa vụ tiếp tục giải quyết khiếu nại. Quyết định đình chỉ có giá trị pháp lý như một quyết định chấm dứt vụ việc.

Thứ hai, người khiếu nại không được tiếp tục yêu cầu giải quyết. Sau khi đình chỉ, người khiếu nại không thể tiếp tục yêu cầu cơ quan đó giải quyết vụ việc khiếu nại cùng nội dung. Quyền khởi kiện ra tòa án hành chính có thể được áp dụng nếu người khiếu nại không đồng ý với lý do đình chỉ.

Thứ ba, không làm phát sinh các thủ tục pháp lý tiếp theo. Các biện pháp liên quan đến việc thụ lý, xác minh, kết luận sẽ không được tiếp tục thực hiện. Các nghĩa vụ hoặc quyền lợi liên quan đến việc giải quyết khiếu nại cũng chấm dứt.

Thứ tư, người bị khiếu nại không còn bị buộc phải tiếp tục thực hiện các nghĩa vụ theo quy định của pháp luật hay bị xử lý liên quan đến nội dung khiếu nại. Quyết định đình chỉ đồng nghĩa với việc nội dung khiếu nại không được tiếp tục xem xét và người bị khiếu nại không còn phải chịu áp lực về giải quyết vụ việc.

Thứ năm, tác động đến quyền khởi kiện ra tòa án hành chính. Nếu người khiếu nại không đồng ý với quyết định đình chỉ, họ có quyền khiếu nại quyết định đình chỉ hoặc khởi kiện quyết định đình chỉ tại tòa án hành chính theo quy định của pháp luật.

Thứ sáu, bảo lưu quyền khiếu nại nếu có căn cứ pháp lý mới. Trong một số trường hợp đặc biệt, nếu có căn cứ hoặc bằng chứng mới, người khiếu nại có thể được xem xét tiếp tục yêu cầu giải quyết vụ việc theo quy định pháp luật.

          Hậu quả của việc đình chỉ giải quyết tố cáo có thể dẫn tới gồm:

Thứ nhất, chấm dứt việc xử lý nội dung tố cáo. Quyết định đình chỉ đồng nghĩa với việc cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân có thẩm quyền không tiếp tục giải quyết nội dung tố cáo. Vụ việc sẽ không được xác minh, kết luận hoặc xử lý tiếp theo bởi cơ quan đã ban hành quyết định đình chỉ.

Thứ hai, người tố cáo không thể tiếp tục yêu cầu giải quyết cùng nội dung. Sau khi đình chỉ, người tố cáo không thể tiếp tục yêu cầu cơ quan đã đình chỉ giải quyết vụ việc với cùng nội dung. Tuy nhiên, trong một số trường hợp đặc biệt, nếu có bằng chứng hoặc căn cứ mới, vụ việc có thể được khởi động lại theo quy định của pháp luật.

Thứ ba, người bị tố cáo không bị buộc phải tiếp tục thực hiện các nghĩa vụ theo quy định của pháp luật hay bị xử lý liên quan đến nội dung tố cáo. Người bị tố cáo không còn bị ràng buộc bởi quá trình giải quyết tố cáo, trừ khi có căn cứ mới phát sinh hoặc vụ việc được chuyển sang cơ quan có thẩm quyền khác. Các biện pháp xử lý kỷ luật, hành chính hoặc hình sự (nếu có) sẽ không được tiếp tục thực hiện trong phạm vi tố cáo đã đình chỉ.

Thứ tư, tác động đến quyền lợi và nghĩa vụ của các bên liên quan. Đối với người tố cáo: Quyền tố cáo trong phạm vi vụ việc đã đình chỉ không còn, trừ khi có căn cứ pháp lý mới. Đối với người bị tố cáo: Quyền được bảo vệ danh dự, uy tín được khôi phục nếu việc tố cáo bị đình chỉ.

Thứ năm, không phát sinh trách nhiệm xử lý tiếp theo của cơ quan giải quyết tố cáo. Cơ quan giải quyết tố cáo không còn nghĩa vụ xác minh, kết luận hoặc xử lý nội dung tố cáo. Tuy nhiên, nếu quyết định đình chỉ bị khiếu nại hoặc khởi kiện và bị hủy bỏ, cơ quan này có thể phải tiếp tục giải quyết vụ việc.

Thứ sáu, người tố cáo được quyền khiếu nại hoặc khởi kiện quyết định đình chỉ. Nếu người tố cáo không đồng ý với quyết định đình chỉ, họ có quyền: Khiếu nại lên cơ quan cấp trên trực tiếp của cơ quan đã ban hành quyết định. Hoặc khởi kiện hành chính tại tòa án nếu có căn cứ.

Thứ bảy, khả năng chuyển giao vụ việc sang cơ quan khác. Nếu đình chỉ do lý do không thuộc thẩm quyền, vụ việc có thể được chuyển giao sang cơ quan có thẩm quyền khác để tiếp tục giải quyết. Việc này giúp đảm bảo không bỏ sót các hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng.

3. Căn cứ tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết khiếu nại, tố cáo

Qua các tình huống phát sinh trong thực tiễn có thể phân loại một số căn cứ tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết khiếu nại, tố cáo như sau:

a. Các căn cứ tạm đình chỉ giải quyết khiếu nại, tố cáo bao gồm:

Thứ nhất, theo yêu cầu của người khiếu nại, người tố cáo (người khiếu nại, tố cáo xin tạm hoãn làm việc với cơ quan, tổ chức cá nhân có thẩm quyền do phải đi chữa bệnh, đi công tác ở nước ngoài hoặc các lý do hợp lý khác).

Thứ hai, do phải chờ đợi các kết quả giải quyết từ bên thứ ba (ví dụ cần đợi kết quả giải quyết của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác hoặc đợi kết quả giải quyết vụ việc khác có liên quan; cần đợi kết quả giám định bổ sung, giám định lại v.v…) hoặc do cần thu thập thông tin, tài liệu từ nước ngoài ( ví dụ khi nội dung tố cáo liên quan đến yếu tố nước ngoài, cần phải thu thập chứng cứ hoặc tài liệu từ nước ngoài thông qua hợp tác quốc tế, thời gian giải quyết có thể kéo dài. Việc tạm đình chỉ trong trường hợp này giúp đảm bảo kết quả giải quyết tố cáo chính xác, đầy đủ) Hoặc trong quá trình giải quyết tố cáo nếu thấy hành vi bị tố cáo có dấu hiệu của tội phạm và chuyển hồ sơ, tài liệu đến Cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát nhân dân có thẩm quyền để xử lý theo quy định của pháp luật thì việc tạm đình chỉ giải quyết tố cáo là cần thiết cho đến khi có kết luận chính thức từ cơ quan có thẩm quyền.

Thứ ba, do chưa đủ điều kiện, cơ sở pháp lý để tiếp tục giải quyết (ví dụ người khiếu nại là cá nhân đã chết mà quyền, nghĩa vụ của họ chưa được thừa kế; người khiếu nại mất năng lực hành vi dân sự mà chưa xác định được người đại diện theo pháp luật; cơ quan, tổ chức đã giải thể mà chưa có cơ quan, tổ chức kế thừa quyền, nghĩa vụ tham gia khiếu nại…)

Thứ tư, do cần sự phối hợp giải quyết từ nhiều cơ quan khác nhau (ví dụ trong một số vụ việc phức tạp liên quan đến nhiều lĩnh vực hoặc địa bàn khác nhau, việc giải quyết tố cáo có thể cần đến sự phối hợp từ nhiều cơ quan nhà nước. Nếu chưa có sự thống nhất về trách nhiệm, thẩm quyền giữa các cơ quan, việc tiếp tục giải quyết tố cáo có thể gặp trở ngại và do đó cần tạm đình chỉ).

Thứ năm, do người bị tố cáo mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh hiểm nghèo cần phải tạm đình chỉ giải quyết tố cáo để chờ đến khi khỏi bệnh (để được tạm đình chỉ giải quyết tố cáo thì triệu chứng tâm thần của người này phải qua kiểm tra và có kết luận chính thức từ cơ quan có thẩm quyền và khi khỏi bệnh tức là căn cứ tạm đình chỉ đã hết thì việc giải quyết tố cáo lại tiếp tục theo quy định pháp luật).

Thứ sáu, do người tố cáo đang trong thời gian thực hiện các biện pháp bảo vệ người tố cáo[1] theo quy định (ví dụ được bảo vệ đến nơi an toàn) thì cơ quan có thẩm quyền giải quyết tố cáo có thể tạm đình chỉ việc giải quyết tố cáo để thực hiện các biện pháp bảo vệ an toàn cho người tố cáo. Sau khi đảm bảo người tố cáo được bảo vệ an toàn, quá trình giải quyết tố cáo mới tiếp tục.

Thứ bảy, do nội dung khiếu nại, tố cáo liên quan đến bí mật quốc phòng, an ninh quốc gia (ví dụ nếu nội dung khiếu nại, tố cáo liên quan đến các vấn đề an ninh quốc phòng hoặc bí mật nhà nước, an ninh quốc gia có thể cần tạm đình chỉ để đảm bảo an toàn thông tin, tránh lộ lọt bí mật nhà nước trong quá trình giải quyết).

Thứ tám, do các điều kiện khách quan bất khả kháng như thiên tai, dịch bệnh.

b. Các căn cứ đình chỉ giải quyết khiếu nại, tố cáo bao gồm:

Thứ nhất, theo yêu cầu của người khiếu nại, người tố cáo (người khiếu nại, tố cáo rút khiếu nại, rút tố cáo).

Thứ hai, do người khiếu nại, người tố cáo vi phạm nghiêm trọng các nghĩa vụ của mình khi tố cáo, khiếu nại (ví dụ người khiếu nại, tố cáo đã được triệu tập hợp lệ nhiều lần mà vẫn vắng mặt không có lý do chính đáng; người khiếu nại, tố cáo từ chối làm việc hoặc không cung cấp các tài liệu, thông tin cho cơ quan chức năng; không nhận giấy mời, từ chối ký vào biên bản làm việc v.v…)

Thứ ba, do đối tượng của khiếu nại, tố cáo không còn (ví dụ quyết định hành chính bị khiếu nại đã được thu hồi, hủy bỏ; người bị tố cáo là cá nhân chết và nội dung tố cáo chỉ liên quan đến trách nhiệm của người bị tố cáo v.v…)

Thứ tư, do không đủ điều kiện, cơ sở pháp lý để tiếp tục giải quyết (ví dụ người khiếu nại là cá nhân đã chết mà quyền, nghĩa vụ của họ không được thừa kế; cơ quan, tổ chức đã giải thể mà không có cơ quan, tổ chức kế thừa quyền, nghĩa vụ tham gia khiếu nại…)

Thứ năm vụ việc khiếu nại, tố cáo đã được giải quyết bằng bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật hoặc quyết định đã có hiệu lực của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền.

Các căn cứ này cần được tiếp tục nghiên cứu, bổ sung và làm rõ thêm để hoàn thiện chế định về tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết khiếu nại, tố cáo.

 

ThS. Vũ Đức Hoan

Viện Chiến lược và Khoa học thanh tra

[1] Thông tư 45/2020/TT-BCA quy định thẩm quyền, trình tự, thủ tục, biện pháp bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự, nhân phẩm của người tố cáo về hành vi tham nhũng, lãng phí.

 

(Nguồn: http://www.issi.gov.vn/News/NewsEventDetail.aspx?9123)





Các tin khác

Hỗ trợ trực tuyến
 ĐT : 0222 3875002
Fax : 0222 3874300
bantiepcongdanbacninh@gmail.com
Trao đổi - Góp ý
Liên kết