Một số giải pháp bảo đảm thực hiện quyền và nghĩa vụ của người tố cáo và người bị tố cáo
Bốn là, sửa đổi, bổ sung quyền đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền áp dụng các biện pháp bảo vệ người tố cáo
· Mở rộng chủ thể được bảo vệ
Trên cơ sở Điều 47 Luật Tố cáo năm 2018 thì người được bảo vệ bao hàm: Người tố cáo, vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người tố cáo. Khi phân tích vấn đề, có thể nhận thấy đối tượng được bảo vệ trong Luật Tố cáo chính yếu tập trung vào những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người thực hiện tố cáo nếu chiếu theo Bộ luật Dân sự. So sánh vấn đề cùng Luật Tố cáo năm 2011 có thể nhận thấy chủ thể được bảo vệ khi thực hiện việc tố cáo trong Luật Tố cáo năm 2018 hẹp hơn so với Luật Tố cáo năm 2011. Gia đình có vai trò quan trọng không chỉ đối với sự phát triển của mỗi cá nhân mà cả trong việc thực hiện các chức năng xã hội, giữ gìn và trao truyền các giá trị văn hóa dân tộc từ thế hệ này sang thế hệ khác. Với truyền thống coi trọng gia đình, người tố cáo họ sẽ “e ngại” vì ảnh hưởng đến thành viên gia đình của họ nên họ sẽ “ngại” tố cáo, nhất là trong việc tố cáo về hành vi tham nhũng, lãng phí. Bởi, người bị tố cáo trong trường hợp này thường là người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan nhà nước nên khả năng trả thù, trù dập xảy ra rất cao.
Để khuyến khích người dân thực hiện quyền tố cáo của mình, góp phần đấu tranh phòng, chống các hành vi vi phạm pháp luật, tạo sự an tâm cho người tố cáo “vạch trần” sự thật thì Luật Tố cáo năm 2018 cần mở rộng các chủ thể được bảo vệ: Vợ, chồng; cha mẹ đẻ, cha mẹ nuôi, cha dượng, mẹ kế, cha mẹ vợ, cha mẹ chồng; con đẻ, con nuôi, con riêng của vợ hoặc chồng, con dâu, con rể; anh, chị, em cùng cha mẹ, anh, chị, em cùng cha khác mẹ, anh, chị, em cùng mẹ khác cha, anh rể, em rể, chị dâu, em dâu của người cùng cha mẹ hoặc cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha; ông bà nội, ông bà ngoại; cháu nội, cháu ngoại; cô, dì, chú, cậu, bác ruột và cháu ruột của người tố cáo.
- Xác định chủ thể duy nhất có trách nhiệm bảo vệ người tố cáo
Tại Điều 49 Luật Tố cáo năm 2018 quy định về bảo vệ người tố cáo để quy định cụ thể trách nhiệm cơ quan có thẩm quyền áp dụng biện pháp bảo vệ. Theo đó, người giải quyết tố cáo có trách nhiệm bảo vệ bí mật thông tin, vị trí công tác, việc làm của người được bảo vệ thuộc quyền quản lý và những nội dung bảo vệ khác nếu thuộc thẩm quyền của mình; trường hợp không thuộc thẩm quyền thì yêu cầu hoặc đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền áp dụng các biện pháp bảo vệ. Đây là quy định mới, là cơ sở pháp lý quan trọng để xác định trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc áp dụng biện pháp bảo vệ người tố cáo. Việc áp dụng các biện pháp bảo vệ được thực hiện ngay từ giai đoạn tiếp nhận, xác minh, đến thụ lý giải quyết tố cáo và Luật Tố cáo năm 2018 giao trách nhiệm cho từng cơ quan cụ thể tương ứng với mỗi giai đoạn. Nếu tách bạch riêng cho từng giai đoạn thì quy định này sẽ rất hợp lý và tiến bộ khi mà đã phân công cụ thể từng công việc cho các cơ quan khác nhau. Nhưng bảo vệ người tố cáo cần được đặt trong suốt toàn bộ quá trình xảy ra việc tố cáo, trong nhiều trường hợp, việc xác định cụ thể các cơ quan có trách nhiệm và phương thức phối hợp giữa các cơ quan này sẽ dẫn đến khả năng chồng chéo hoặc né tránh. Chưa kể sự liên quan của nhiều chủ thể như vậy làm giảm tính bảo mật cho thông tin cá nhân của người tố cáo. Vì vậy, phương án tối ưu nhất trong trường hợp này nên được điều chỉnh theo hướng xác định chủ thể duy nhất có trách nhiệm bảo vệ người tố cáo và chủ thể đó chỉ có thể huy động sự hỗ trợ của các cơ quan khác khi cần thiết. Luật Tố cáo năm 2018 nên giao cho người giải quyết tố cáo có trách nhiệm bảo vệ người tố cáo để nhằm tạo tính thống nhất và bảo mật thông tin cho người được bảo vệ. Người giải quyết tố cáo là chủ thể chủ trì, có trách nhiệm phối hợp với các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác để áp dụng các biện pháp bảo vệ.
- Nghiên cứu bổ sung quy định về tố cáo nặc danh nhằm bảo vệ thông tin người tố cáo
Theo quy định tại Điều 49 Luật Tố cáo năm 2018, có nhiều chủ thể có thể nắm bắt và truy xuất được thông tin người tố cáo như: Người giải quyết tố cáo, cơ quan tiếp nhận, xác minh nội dung tố cáo; công an chủ trì phối hợp với cơ quan, tổ chức bảo vệ tính mạng, sức khỏe người tố cáo; cơ quan quản lý nhà nước về cán bộ, công chức, viên chức, người lao động; Ủy ban nhân dân các cấp; công đoàn các cấp…, tuy nhiên, Điều 56 Luật Tố cáo năm 2018 chỉ xác định cơ quan tiếp nhận, chuyển đơn tố cáo, giải quyết tố cáo sẽ có trách nhiệm giữ bí mật họ tên, địa chỉ, bút tích và các thông tin cá nhân khác của người tố cáo.
Từ vấn đề trên, theo tác giả, cần có biện pháp bảo mật thông tin người tố cáo, thay đổi cách nhìn nhận về tố cáo nặc danh và thừa nhận hình thức tố cáo này trong quy định của pháp luật, bởi đây cũng là một kênh hữu hiệu để phát hiện và xử lý hành vi tiêu cực, là biện pháp để bảo vệ người tố cáo khỏi sự đe dọa, trả thù, trù dập. Tổ chức Minh bạch Quốc tế khuyến nghị rằng, cần phải thừa nhận việc tố cáo nặc danh, cơ quan tiếp nhận và xác minh tố cáo không nên bỏ qua hình thức tố cáo nặc danh, bởi suy cho cùng, đây là biện pháp an toàn nhất để bảo vệ thông tin người tiến hành tố cáo. Vì vậy, việc tố cáo nặc danh sẽ là biện pháp tối ưu, đồng thời, cơ quan có thẩm quyền sẽ không cần áp dụng các biện pháp bảo vệ người tố cáo.
- Bổ sung chế tài cụ thể đối với việc xử lý hành vi vi phạm việc bảo vệ bí mật thông tin của người tố cáo
Pháp luật về tố cáo cần quy định về việc xử lý nghiêm khắc đối với người có trách nhiệm tiếp nhận tố cáo, người giải quyết tố cáo mà để lộ thông tin về người tố cáo do lỗi cố ý hoặc vô ý thì sẽ bị xử lý kỷ luật đến buộc thôi việc hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải chịu trách nhiệm bồi thường theo quy định của pháp luật.
Để bảo đảm an toàn thông tin người tiến hành tố cáo, cần quy định chế tài nghiêm khắc hơn đối với trường hợp vi phạm việc bảo vệ bí mật thông tin của người tố cáo cũng như người được bảo vệ, có sự phân biệt các mức độ vi phạm khác nhau. Theo đó, có thể giữ nguyên mức độ xử lý kỷ luật đối với hành vi vô ý làm lộ bí mật thông tin của người tố cáo hành vi tham nhũng. Tuy nhiên, đối với các trường hợp cố ý tiết lộ thông tin của người tố cáo sẽ có hình thức kỷ luật hạ bậc lương với công chức, giáng chức với công chức giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý; việc tiết lộ thông tin làm cho người tố cáo chịu ảnh hưởng nghiêm trọng bởi hành vi trả thù, đe dọa thì sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự, đồng thời, phải chịu liên đới việc bồi thường những thiệt hại mà người tố cáo hành vi tham nhũng phải gánh chịu do hành vi cố tình hay vô ý tiết lộ thông tin mà mình thực hiện. Bí mật thông tin người tố cáo là bí mật nhà nước và theo Luật Bảo vệ bí mật nhà nước năm 2018 thì thông tin này được phân loại ở độ “mật”. Do vậy, trong trường hợp thông tin của người tố cáo bị lộ lọt, gây ảnh hưởng đặc biệt nghiêm trọng đến tính mạng, tài sản của người tố cáo thì dù vô ý hay cố ý cũng cần phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 1, Điều 337 hoặc khoản 1, Điều 338 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
- Bổ sung chế tài cụ thể đối với việc xử lý hành vi vi phạm của người tố cáo
Quy định cụ thể các chế tài xử lý và thực hiện xử lý nghiêm khắc đối với người bị tố cáo có hành vi vi phạm pháp luật; người tố cáo cố tình tố cáo sai sự thật để làm hại đến danh dự, nhân phẩm của người khác; người có trách nhiệm giải quyết nhưng không giải quyết hoặc thông đồng với người tố cáo, người bị tố cáo giải quyết thiếu khách quan, thiếu chính xác nhằm mục đích vụ lợi. Bên cạnh đó, cần hoàn thiện các quy định pháp luật về xử phạt hành chính, xử lý kỷ luật, xử lý hình sự đối với những người có hành vi này.
Người tố cáo thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định tại Điều 9 Luật Tố cáo năm 2018. Đối với hành vi cố ý tố cáo sai sự thật là một trong các hành vi bị nghiêm cấm theo quy định tại Điều 8 của Luật Tố cáo, chế tài xử lý đối với hành vi cố ý tố cáo sai sự thật đã được đề cập tại điểm c, khoản 1, Điều 44 Luật Tố cáo, theo đó, trên cơ sở kết luận nội dung tố cáo, căn cứ vào tính chất, mức độ vi phạm, người giải quyết tố cáo xử lý theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xử lý người tố cáo cố ý tố cáo sai sự thật. Đối với trường hợp người tố cáo là cán bộ, công chức, viên chức được quy định tại Điều 23 Nghị định số 31/2019/NĐ-CP của Chính phủ, cụ thể cán bộ, công chức, viên chức có hành vi biết rõ việc tố cáo là không đúng sự thật nhưng vẫn tố cáo nhiều lần hoặc biết vụ việc đã được cơ quan, người có thẩm quyền giải quyết đúng chính sách, pháp luật nhưng vẫn tố cáo nhiều lần mà không có bằng chứng chứng minh nội dung tố cáo… thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm sẽ bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Từ thực tế cho thấy, trong các vụ việc tố cáo phần lớn chủ thể tố cáo không phải cán bộ, công chức, viên chức, trong số đó một số cá nhân lợi dụng quyền tố cáo để vu khống, tố cáo sai sự thật vì mục đích, động cơ cá nhân, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín, danh dự của cá nhân, tổ chức bị tố cáo, gây phức tạp tình hình an ninh trật tự. Vì vậy, cần bổ sung chế tài hướng dẫn xử lý cụ thể đối với các trường hợp này. Đồng thời, ngoài các quy định trên, Luật cần quy định rõ hơn chế độ trách nhiệm và chế tài xử lý đối với các hành vi cố ý tố cáo sai sự thật, sử dụng họ, tên của người khác để tố cáo hay lợi dụng việc tố cáo để tuyên truyền chống Nhà nước, xâm phạm lợi ích của Nhà nước; xuyên tạc, vu khống, gây rối an ninh, trật tự công cộng, xúc phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác. Đây là các quy định nhằm ngăn chặn việc lạm dụng quyền tố cáo để tố cáo tràn lan, thiếu căn cứ, nhằm xâm hại quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Để đáp ứng yêu cầu của công tác phòng, chống các hành vi vi phạm pháp luật, đồng thời tăng cường sự tham gia đông đảo của nhân dân, của các phương tiện thông tin đại chúng và các tổ chức xã hội vào giám sát việc thực hiện các quy định của pháp luật về giải quyết, xử lý các hành vi vi phạm thì pháp luật về tố cáo và giải quyết tố cáo trong thời gian tới phải có quy định về việc đa dạng hoá hình thức gửi, công khai kết luận nội dung tố cáo, quyết định xử lý tố cáo. Căn cứ vào mục đích, yêu cầu của việc công khai, người giải quyết tố cáo có quyền áp dụng các hình thức như niêm yết tại trụ sở làm việc hoặc nơi tiếp công dân của cơ quan đã có kết luận vụ việc tố cáo, quyết định xử lý tố cáo; thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng; tổ chức công bố công khai tại nơi làm việc hoặc nơi sinh sống của người có hành vi vi phạm.
2.3. Giải pháp tổ chức thực hiện quyền và nghĩa vụ của người tố cáo và người bị tố cáo
Một là, thực hiện tốt công tác tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật liên quan đến thực hiện quyền và nghĩa vụ của người tố cáo và người bị tố cáo
Để bảo đảm thực hiện quyền và nghĩa vụ của người tố cáo và người bị tố cáo đáp ứng được yêu cầu đặt ra, cần phải tăng cường hoạt động tuyên truyền phổ biến, giáo dục sâu rộng về pháp luật liên quan đến thực hiện quyền và nghĩa vụ của người tố cáo và người bị tố cáo. Có thể thấy, bảo đảm thực hiện quyền và nghĩa vụ của người tố cáo và người bị tố cáo không chỉ phụ thuộc vào năng lực thực thi pháp luật của các chủ thể có thẩm quyền giải quyết tố cáo mà còn phụ thuộc vào nhận thức, sự hiểu biết của xã hội về pháp luật nói chung và pháp luật về tố cáo nói riêng. Thực tế hiện nay cho thấy nhận thức về pháp luật nói chung, pháp luật tố cáo nói riêng của người dân còn chưa cao. Do vậy, có nhiều trường hợp người tố cáo đã không thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình khi khiếu nại làm cho tình hình khiếu nại phức tạp hoặc không đủ hiểu biết để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình trước cách giải quyết thiếu đúng đắn, hợp lý của cơ quan, cá nhân có thẩm quyền. Nhận thức của cán bộ, công chức về vấn đề này cũng còn nhiều hạn chế. Những nguyên nhân đó làm cho bảo đảm thực hiện quyền và nghĩa vụ của người tố cáo và người bị tố cáo chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn.
Hai là, tăng cường chỉ đạo, hướng dẫn nghiệp vụ, theo dõi, đôn đốc việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của người tố cáo và người bị tố cáo
Trên cơ sở các quy định hiện hành, để bảo đảm thực hiện quyền và nghĩa vụ của người tố cáo và người bị tố cáo đáp ứng được yêu cầu đặt ra, trước hết các cơ quan có chức năng giải quyết tố cáo cần phải nhận thức rõ về vị trí, vai trò và tầm quan trọng của lĩnh vực công tác này, từ đó có những dự báo, định hướng lâu dài và hành động cụ thể đối với thực hiện quyền và nghĩa vụ của người tố cáo và người bị tố cáo. Hàng năm, trong chương trình, kế hoạch công tác của các cơ quan nhà nước phải xác định rõ những nhiệm vụ cụ thể liên quan đến thực hiện quyền và nghĩa vụ của người tố cáo và người bị tố cáo; đồng thời tăng cường việc kiểm tra, đôn đốc thực hiện các kế hoạch đề ra, khắc phục những tồn tại, bất cập, vướng mắc phát sinh.
Về hướng dẫn nghiệp vụ giải quyết tố cáo, các cơ quan có thẩm quyền cần tập trung hướng dẫn chi tiết đối với các tổ chức, cá nhân làm công tác giải quyết tốc cáo. Trong thời gian tới cần có chỉ đạo và hướng dẫn kịp thời về các vấn đề đang đặt ra hiện nay như việc tố cáo đông người, giải quyết các vụ việc vừa khiếu nại, vừa tố cáo, vụ việc từ khiếu nại chuyển sang tố cáo và ngược lại; việc xác định đối tượng của tố cáo; xem xét lại các quyết định xử lý tố cáo đã có hiệu lực pháp luật…
Công tác theo dõi, đôn đốc tập trung vào những vụ việc, vấn đề cụ thể về thực hiện trình tự, thủ tục giải quyết tố cáo. Qua theo dõi đôn đốc, kiểm tra cần tiến hành tổng kết, đánh giá nhằm rút ra kết luận ưu điểm, nhược điểm của việc tổ chức thực hiện làm bài học kinh nghiệm.
Ba là, nâng cao trình độ, năng lực đội ngũ cán bộ làm công tác giải quyết tố cáo
- Xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác tiếp dân, giải quyết tố cáo trong sạch, vững mạnh. Đảm bảo đủ số lượng biên chế cho những cơ quan làm nhiệm vụ tiếp dân, giải quyết tố cáo. Nâng cao trình độ, năng lực chuyên môn của đội ngũ cán bộ, công chức thông qua các chương trình đào tạo, đào tạo lại, các khoá bồi dưỡng nghiệp vụ nhằm làm cho cán bộ, công chức nâng cao kỹ năng nghiệp vụ về tuyên truyền, phổ biến pháp luật; về tiếp dân, giải quyết tố cáo. Thường xuyên tổ chức những khoá bồi dưỡng kiến thức quản lý, lý luận chính trị, đặc biệt là kiến thức xã hội và kinh nghiệm thực tiễn xử lý tình huống phát sinh trong công tác tiếp dân, giải quyết tố cáo, nhằm làm cho đội ngũ cán bộ, công chức nắm bắt kịp thời các kỹ năng nghề nghiệp và đường lối, chính sách của Đảng về giải quyết khiếu nại, tố cáo; nâng cao phẩm chất, đạo đức cách mạng.
- Xây dựng chương trình quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác tham mưu giải quyết tố cáo theo hướng chuyên nghiệp, phù hợp với yêu cầu quản lý nhà nước và thẩm quyền, trách nhiệm giải quyết tố cáo của Thủ trưởng cơ quan hành chính nhà nước. Đồng thời hoàn thiện tiêu chuẩn chức danh, yêu cầu chuyên môn, nghiệp vụ, chế độ tuyển dụng đối với cán bộ, công chức làm công tác giải quyết tố cáo; quy định cụ thể về tiêu chuẩn, trách nhiệm của người làm công tác tiếp công dân để thông qua công tác này, họ có thể tuyên truyền, giáo dục, giải thích pháp luật về tố cáo và giải quyết tố cáo, góp phần hạn chế việc gửi đơn tràn lan, không đúng quy định của pháp luật và làm giảm việc tố cáo trùng lắp, vượt cấp, không đúng thẩm quyền.
Bốn là, tăng cường phối hợp giữa cơ quan thanh tra và các cơ quan hữu quan trong việc bảo đảm thực hiện quyền và nghĩa vụ của người tố cáo và người bị tố cáo
Bảo đảm thực hiện quyền và nghĩa vụ của người tố cáo và người bị tố cáo là công việc rất phức tạp, được tiến hành thông qua nhiều khâu, nhiều giai đoạn và liên quan đến trách nhiệm của nhiều cơ quan, tổ chức. Tuy thanh tra giữ vai trò quan trọng nhưng nếu thiếu sự cộng tác, phối hợp với cơ quan, tổ chức có liên quan thì hiệu quả công tác này sẽ rất hạn chế. Do vậy việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của người tố cáo và người bị tố cáo cần phát huy vai trò tổng hợp của các cơ quan, tổ chức trong cả hệ thống chính trị. Để bảo đảm thực hiện quyền và nghĩa vụ của người tố cáo và người bị tố cáo, phát huy vai trò của cơ quan thanh tra thì sự phối hợp chặt chẽ với các cơ quan, tổ chức có liên quan là hết sức quan trọng.
Sự phối hợp giữa Thanh tra với các cơ quan, tổ chức có liên quan phải được thực hiện đồng bộ trong tất cả các hoạt động của công tác giải quyết tố cáo, từ xây dựng văn bản pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật về tiếp dân, xử lý đơn thư, giải quyết đến thi hành quyết định giải quyết, theo dõi, kiểm tra, đôn đốc, giám sát việc thi hành quyết định giải quyết, xử lý đối với người vi phạm, nhất là đối với cán bộ, công chức, tuyên truyền phổ biến pháp luật... Sự phối hợp còn được thể hiện trong việc giải quyết, tháo gỡ khó khăn, phắc phục hậu quả xảy ra, ổn định chính trị xã hội, hoàn thiện chính sách, pháp luật góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước.
Sự phối kết hợp giữa các cơ quan thanh tra với các cơ quan, tổ chức có liên quan phải được tiến hành thường xuyên, liên tục thực hiện hàng ngày trong các hoạt động thực hiện quyền và nghĩa vụ của người tố cáo và người bị tố cáo cũng như trong trường hợp xử lý tố cáo đông người, phức tạp, vượt cấp.
Tóm lại, tăng cường phối hợp giữa các cấp, các ngành là việc làm hết sức cần thiết nhằm thực hiện quyền và nghĩa vụ của người tố cáo và người bị tố cáo. Hoạt động này thể hiện qua việc xây dựng văn bản pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật và kiểm soát việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của người tố cáo và người bị tố cáo.
Năm là, tổng kết thi hành pháp luật về tố cáo
Đẩy mạnh công tác tổng kết thực tiễn thi hành pháp luật về tố cáo nhằm phản ánh, đánh giá đúng thực trạng việc thi hành pháp luật và kết quả thực hiện, khó khăn, vướng mắc, tồn tại cùng những bài học kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn. Trong công tác này cần đặc biệt quan tâm tới việc tiến hành tổng kết sâu trong từng lĩnh vực cụ thể, đặc biệt là bảo đảm thực hiện quyền và nghĩa vụ của người tố cáo và người bị tố cáo, trong đó chú trọng tới những vấn đề nổi cộm, thường phát sinh tố cáo như tình trạng tham nhũng, lãng phí, vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức nhà nước. Việc tổng kết cần được tiến hành theo các nội dung: tình hình, kết quả thực hiện các quy định của pháp luật về tố cáo; những nội dung đã thực hiện tốt; những khó khăn, vướng mắc thường gặp trong các khâu tiếp nhận, thụ lý tố cáo, xác minh, kết luận và xử lý vi phạm; những bài học kinh nghiệm và các đề xuất kiến nghị sửa đổi, bổ sung một số quy định của pháp luật cũng như sửa đổi cách thức làm việc của cán bộ, công chức và cơ quan nhà nước... Đây là một trong những căn cứ quan trọng để hoàn thiện pháp luật về tố cáo và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan. Kết quả tổng kết cần được phổ biến rộng rãi trong các cơ quan nhà nước, nhất là đối với những người có thẩm quyền giải quyết tố cáo.
Sáu là, tăng cường kiểm soát việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của người tố cáo và người bị tố cáo
Đối với thanh tra, kiểm tra trách nhiệm trong giải quyết tố cáo
Tăng cường thanh tra, kiểm tra trách nhiệm của thủ trưởng cơ quan nhà nước và những người có thẩm quyền trong giải quyết tố cáo nhằm xem xét, đánh giá, kết luận, xử lý việc chấp hành pháp luật về tố cáo trên các mặt công tác tiếp nhận, xử lý đơn tố cáo, giải quyết tố cáo, kết luận và xử lý người có hành vi vi phạm. Bên cạnh đó, thông qua việc thanh tra, kiểm tra trách nhiệm còn có tác dụng định hướng, chấn chỉnh việc thi hành pháp luật, từ đó có các biện pháp phòng ngừa vi phạm pháp luật trong hoạt động giải quyết tố cáo.
Việc tăng cường thanh tra, kiểm tra trách nhiệm của các chủ thể này cần thực hiện bằng những biện pháp sau:
- Thủ trưởng cơ quan hành chính nhà nước cấp trên phải xây dựng chương trình, kế hoạch thanh tra, kiểm tra đối với Thủ trưởng cơ quan quản lý cấp dưới bằng các hình thức: thanh tra toàn diện, thanh tra theo vụ việc hoặc thanh tra đột xuất. Đặc biệt, khi có vụ việc tố cáo phức tạp, đông người, có dấu hiệu vi phạm pháp luật thì phải tiến hành thanh tra ngay để có biện pháp xử lý, chấn chỉnh kịp thời.
- Hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc cơ quan hành chính cấp dưới trong việc giải quyết tố cáo, thi hành các quyết định xử lý tố cáo đã có hiệu lực pháp luật; kịp thời xử lý nghiêm minh đối với người thiếu trách nhiệm và có hành vi vi phạm pháp luật trong giải quyết tố cáo, không chấp hành nghiêm chỉnh quyết định giải quyết tố cáo đã có hiệu lực pháp luật của cơ quan hành chính cấp trên.
- Chỉ đạo thực hiện triệt để các kết luận, quyết định xử lý sau thanh tra trên hai mặt: xử lý nghiêm minh những người vi phạm pháp luật về tố cáo và có biện pháp định hướng khắc phục những tồn tại trong thực tiễn áp dụng pháp luật cũng như các quy định bất cập của pháp luật hiện hành.
Đối với hoạt động giám sát công tác giải quyết tố cáo
Để đảm bảo thực hiện quyền và nghĩa vụ của người tố cáo và người bị tố cáo thì cần có sự tham gia giám sát của các tổ chức xã hội, đoàn thể và các cơ quan đại diện, cụ thể như hoạt động giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các thành viên của Mặt trận, Ban thanh tra nhân dân… Các cơ quan, tổ chức này có vai trò rất quan trọng và là một trong những nhân tố góp phần nâng cao hiệu quả công tác giải quyết tố cáo. Chính vì vậy, một trong những nguyên tắc chủ đạo hoàn thiện pháp luật về thực hiện quyền và nghĩa vụ của người tố cáo và người bị tố cáo là việc tăng cường vai trò của các cơ quan, tổ chức này trong việc giám sát hoạt động giải quyết tố cáo của các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền.
Bảy là, đảm bảo các điều kiện vật chất cho cơ quan có thẩm quyền và những người có thẩm quyền giải quyết tố cáo; tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin vào thực hiện quyền và nghĩa vụ của người tố cáo và người bị tố cáo
Các cấp ủy đảng, chính quyền chỉ đạo các đơn vị xây dựng kế hoạch phát triển các phòng tiếp công dân hiện đại, đáp ứng đầy đủ nhu cầu phục vụ công tác tiếp công dân như: trang bị, nâng cấp hệ thống điện, ánh sáng, bàn ghế, bảng, quạt, điều hoà nhiệt độ, các trang thiết bị theo công nghệ tiên tiến (máy tính, bảng thông minh để tra cứu các văn bản pháp quy hiện hành, kết nối internet và các công cụ đa phương tiện khác), lắp đặt hệ thống camera giám sát để kịp thời có biện pháp xử lý đối với tình trạng công dân quá khích; kết nối internet cho cán bộ tiếp công dân và người dân để kịp thời khai thác các quy định pháp luật nhằm giải đáp thắc mắc và hỗ trợ công dân khi cần thiết, là cơ sở cho việc triển khai các dự án “Xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về hệ thống báo cáo công tác thanh tra, khiếu nại tố cáo, phòng chống tham nhũng” và “Xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về khiếu nại, tố cáo” từng bước hoàn thiện, thống nhất và hỗ trợ tốt nhất nghiệp vụ tiếp dân, xử lý đơn thư của ngành Thanh tra; xây dựng phần mềm quản lý công tác tiếp công dân, giải quyết tố cáo tại đơn vị theo phần mềm thống nhất; xây dựng cơ sở dữ liệu chung về công tác tiếp công dân để thuận lợi khai thác thông tin chung trong quá trình tiếp công dân; tránh tình trạng công dân cố tình không cung cấp đầy đủ thông tin, quá trình giải quyết của các cấp dẫn đến việc cán bộ tiếp công dân xử lý chưa chính xác.
Đầu tư nguồn lực đẩy nhanh việc khắc phục những khó khăn khi triển khai sử dụng chung hệ thống phần mềm tiếp công dân tại Trụ sở, cơ sở dữ liệu quốc gia về khiếu nại, tố cáo, đảm bảo sự thống nhất từ Trung ương xuống địa phương Cùng với quá trình đầu tư xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu, cần tổ chức đào tạo, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục, hướng dẫn tất cả các cán bộ, công chức trong cả nước, từ cơ sở cho đến cơ quan Trung ương thực hiện tác nghiệp trên các ứng dụng cơ sở dữ liệu quốc gia, sử dụng cơ sở dữ liệu phục vụ cho công tác tổng hợp thông tin, báo cáo và lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành.
Có chế độ, chính sách đãi ngộ phù hợp với điều kiện đặc thù của công tác tiếp dân, giải quyết tố cáo để thu hút cán bộ và để các cán bộ thực hiện nhiệm vụ này yên tâm công tác, hoàn thành nhiệm vụ được giao. Cụ thể là cần quy định chế độ tiền lương và phụ cấp trách nhiệm cho cán bộ chuyên trách làm công tác giải quyết tố cáo, đặc biệt là người có trách nhiệm tiếp nhận thông tin tố cáo để họ nâng cao trách nhiệm trong việc giữ bí mật thông tin về người tố cáo theo quy định, hạn chế tối đa khả năng phát sinh hành vi tiêu cực khi giải quyết tố cáo./.
CN. Đậu Thị Hiền
Viện Chiến lược và Khoa học thanh tra
(Nguồn: http://www.issi.gov.vn/News/NewsEventDetail.aspx?9115)