Một số giải pháp bảo đảm thực hiện quyền và nghĩa vụ của người tố cáo và người bị tố cáo
Quyền” và “nghĩa vụ” là hai khái niệm tách bạch nhau, không chồng lấn lên nhau, cụ thể như sau: Quyền là cái mà con người ta có và họ được tự quyết sử dụng hay không sử dụng nó. Nghĩa vụ: là điều bắt buộc con người đó phải thực hiện. Dưới góc độ pháp lý, quyền là những việc mà một người được làm mà không bị ai ngăn cản, hạn chế. Quyền để chỉ những điều mà pháp luật công nhận và đảm bảo thực hiện đối với cá nhân, tổ chức để theo đó cá nhân được hưởng, được làm, được đòi hỏi mà không ai được ngăn cản, hạn chế.
1. Nhận thức chung về thực hiện quyền và nghĩa vụ của người tố cáo và người bị tố cáo
“Quyền” và “nghĩa vụ” là hai khái niệm tách bạch nhau, không chồng lấn lên nhau, cụ thể như sau: Quyền là cái mà con người ta có và họ được tự quyết sử dụng hay không sử dụng nó. Nghĩa vụ: là điều bắt buộc con người đó phải thực hiện. Dưới góc độ pháp lý, quyền là những việc mà một người được làm mà không bị ai ngăn cản, hạn chế. Quyền để chỉ những điều mà pháp luật công nhận và đảm bảo thực hiện đối với cá nhân, tổ chức để theo đó cá nhân được hưởng, được làm, được đòi hỏi mà không ai được ngăn cản, hạn chế. Quyền của người tố cáo và người bị tố cáo được coi là một loại quyền năng pháp lý được pháp luật trao cho các cá nhân để bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong quá trình thực hiện pháp luật về tố cáo. Như vậy, quyền của người tố cáo, người bị tố cáo là quyền năng pháp lý của chủ thể được tự quyết định mà không bị ai ngăn cản, do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành và được nhà nước bảo đảm thực hiện, nhằm phát hiện hành vi trái pháp luật và bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Nghĩa vụ của người tố cáo, người bị tố cáo là nghĩa vụ theo luật, mang tính pháp lý, có tính bắt buộc phải thực hiện; nếu không thực hiện sẽ bị áp dụng các chế tài xử lý theo quy định của pháp luật. Vì vậy, nghĩa vụ của người tố cáo, người bị tố cáo là những việc bắt buộc phải thực hiện do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành và bảo đảm thực hiện bằng các chế tài xử lý theo quy định của pháp luật, nhằm bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
“Thực hiện” là làm cho trở thành sự thật bằng những việc làm hoặc hành động cụ thể; là cầu nối giữa ý tưởng và hành động, giúp biến những ý tưởng, kế hoạch thành hiện thực; là thước đo thành công, giúp đánh giá mức độ hoàn thành của một nhiệm vụ, công việc; là động lực phát triển, giúp con người đạt được mục tiêu, khẳng định bản thân.
Thực hiện quyền của người tố cáo và người bị tố cáo là hành động hiệu lực hóa quyền, nghĩa là Luật Tố cáo năm 2018 quy định cá nhân có quyền tố cáo nhưng người tố cáo phải hành động gửi đơn tố cáo hoặc trình bày trực tiếp tại cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. Thực hiện nghĩa vụ của người tố cáo và người bị tố cáo là thực hiện việc phải làm - hành động hoặc không hành động, làm hoặc không làm một việc.
Người tố cáo và người bị tố cáo phải làm, hành động hoặc không hành động, làm hoặc không làm một việc, cụ thể là người tố cáo gửi đơn tố cáo hoặc trình bày trực tiếp tại cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. Đây là sự kiện pháp lý làm phát sinh quan hệ pháp luật về tố cáo, bởi vì sự kiện pháp lý làm phát sinh quan hệ pháp luật về tố cáo là những sự kiện hoặc hành vi thực tế xảy ra trong đời sống xã hội mà pháp luật quy định sẽ dẫn đến việc hình thành một quan hệ pháp luật mới. Khi sự kiện này xảy ra, các quyền và nghĩa vụ pháp lý giữa các chủ thể liên quan sẽ được xác lập, bắt đầu sự tồn tại của một quan hệ pháp luật mới. Tuy nhiên, chỉ có sự kiện pháp lý làm phát sinh quan hệ pháp luật về tố cáo thông qua sự kiện người tố cáo gửi đơn tố cáo hoặc trình bày trực tiếp tại cơ quan, tổ chức có thẩm quyền thì chưa đủ điều kiện để thực hiện quyền và nghĩa vụ của người tố cáo và người bị tố cáo mà phải qua quá trình giải quyết tố cáo của cơ quan có thẩm quyền giải quyết tố cáo thì mới đủ điều kiện để thực hiện quyền và nghĩa vụ của người tố cáo và người bị tố cáo. Nghĩa là phải có người tố cáo và cơ quan có thẩm quyền giải quyết tố cáo ra quyết định thụ lý tố cáo thì mới phát sinh, thực hiện quyền và nghĩa vụ của người tố cáo và đồng thời xác lập quyền và nghĩa vụ của người bị tố cáo. Cho nên, quyền và nghĩa vụ của người bị tố cáo là quyền “phái sinh”.
Từ hướng tiếp cận trên, thực hiện quyền và nghĩa vụ của người tố cáo và người bị tố cáo là hành vi (hành động hoặc không hành động) hiệu lực hóa quyền và nghĩa vụ phải làm hoặc không làm một việc có mục đích của các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật về tố cáo làm cho những quy định của pháp luật về tố cáo đi vào cuộc sống, nhằm bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Thông qua thực hiện quyền và nghĩa vụ của người tố cáo và người bị tố cáo thì những quy định của pháp luật về tố cáo được hiện thực hóa và đi vào đời sống trở thành những hành vi cụ thể của các chủ thể. Bằng việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của người tố cáo và người bị tố cáo, ý chí của cơ quan, tổ chức, cá nhân trở thành hiện thực và những chính sách chủ trương của Nhà nước được phát huy vai trò. Bằng cách thực hiện quyền và nghĩa vụ của người tố cáo và người bị tố cáo, các quy định của pháp luật liên quan đến quyền và nghĩa vụ của người tố cáo và người bị tố cáo từ tất cả nguồn luật khác nhau như tập quán pháp, án lệ, văn bản quy phạm pháp luật… mang tính hiện thực hóa, thực sự đi vào đời sống, trở thành hành vi cụ thể, thực tiễn của các chủ thể pháp luật tham gia vào các quan hệ xã hội theo điều chỉnh của pháp luật. Các chủ trương, chính sách, quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của người tố cáo và người bị tố cáo đi vào cuộc sống thực và phát huy được hết vai trò, tác dụng, hiệu quả của chúng. Qua đó giúp cho đời sống xã hội được ổn định, trật tự và có điều kiện phát triển bền vững, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Việc thực hiện hiện quyền và nghĩa vụ của người tố cáo và người bị tố cáo làm cho đời sống xã hội trở nên ổn định, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân được bảo đảm, trật tự an ninh được duy trì, từ đó tạo điều kiện cho đất nước phát triển bền vững. Trong quá trình tổ chức thực hiện quyền và nghĩa vụ của người tố cáo và người bị tố cáo, hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật sẽ giúp cho các chủ thể có điều kiện nâng cao nhận thức pháp luật, hiểu rõ hơn các quyền và nghĩa vụ pháp lý của mình trong quan hệ pháp luật tố cáo, nhờ đó, họ tích cực và chủ động tham gia nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Thông qua quá trình thực hiện quyền và nghĩa vụ của người tố cáo và người bị tố cáo, những hạn chế, thiếu sót của pháp luật về tố cáo sẽ được bộc lộ và kịp thời xử lý. Từ đó, hệ thống pháp luật về tố cáo sẽ ngày càng hoàn thiện hơn, phù hợp hơn với thực tế nhờ vào quá trình sửa đổi, bổ sung và thay thế kịp thời những khiếm khuyết, chưa phù hợp.
Thực hiện quyền và nghĩa vụ của người tố cáo và người bị tố cáo trong thời gian qua đã đạt được những kết quả tích cực, góp phần đưa những quy định của pháp luật về tố cáo đi vào cuộc sống, nhằm bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân, là công cụ sắc bén và hiệu quả để chống tham nhũng, lãng phí và các hành vi vi phạm pháp luật khác, góp phần đề cao vai trò làm chủ của nhân dân, góp phần bảo vệ Đảng, bảo vệ Nhà nước. Tuy nhiên, thực hiện quyền và nghĩa vụ của người tố cáo và người bị tố cáo vẫn còn những hạn chế, bất cập, chưa thực sự bảo đảm việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của người tố cáo và người bị tố cáo mà Hiến pháp và pháp luật quy định. Những hạn chế về thực hiện quyền và nghĩa vụ của người tố cáo và người bị tố cáo xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó có những nguyên nhân chủ yếu sau đây: Một là, nhận thức về pháp luật và ý thức chấp hành pháp luật của người tố cáo và người bị tố cáo chưa cao; nhận thức của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, người có thẩm quyền giải quyết tố cáo về vai trò, tầm quan trọng của thực hiện quyền và nghĩa vụ của người tố cáo và người bị tố cáo chưa đầy đủ. Hai là, việc xây dựng, ban hành văn bản pháp luật liên quan đến thực hiện quyền và nghĩa vụ của người tố cáo và người bị tố cáo vẫn còn chậm, chưa kịp thời tháo gỡ những vướng mắc, bất cập trong thực tiễn; một số quy định của pháp luật về tố cáo chưa cụ thể, phù hợp với thực tiễn, chưa bảo đảm việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của người tố cáo và người bị tố cáo. Ba là, công tác tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật liên quan đến thực hiện quyền và nghĩa vụ của người tố cáo và người bị tố cáo còn thiếu tính kế hoạch, hiệu quả chưa cao; công tác chỉ đạo, theo dõi, đôn đốc việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của người tố cáo và người bị tố cáo vẫn còn hạn chế. Bốn là, công tác cán bộ và đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác giải quyết tố cáo gặp nhiều vướng mắc. Năm là, việc phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền trong việc bảo đảm thực hiện quyền và nghĩa vụ của người tố cáo và người bị tố cáo chưa thật sự chặt chẽ. Sáu là, công tác tổng kết thi hành pháp luật về tố cáo chưa sâu, chưa toàn diện. Bảy là, việc kiểm soát việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của người tố cáo và người bị tố cáo chưa thực sự hiệu quả. Tám là, các điều kiện vật chất cho cơ quan và những người có thẩm quyền giải quyết tố cáo chưa thật sự đảm bảo.Chín là, việc ứng dụng công nghệ thông tin vào thực hiện quyền và nghĩa vụ của người tố cáo và người bị tố cáo còn hạn chế. Đây là những nguyên nhân chính dẫn đến những bất cập, hạn chế thực hiện quyền và nghĩa vụ của người tố cáo và người bị tố cáo làm căn cứ cho việc đề xuất các giải pháp bảo đảm thực hiện quyền và nghĩa vụ của người tố cáo và người bị tố cáo có tính khả thi. Trong phạm vi bài viết này, tác giả tập trung nghiên cứu một số giải pháp chủ yếu bảo đảm thực hiện quyền và nghĩa vụ của người tố cáo và người bị tố cáo.
2. Một số giải pháp đảm bảo thực hiện quyền và nghĩa vụ người tố cáo và người bị tố cáo
2.1. Giải pháp về nhận thức
Một là, nâng cao nhận thức về pháp luật nói chung và pháp luật về tố cáo nói riêng cho người tố cáo và người bị tố cáo
Thông qua việc đẩy mạnh công tác bồi dưỡng, giáo dục pháp luật trong mọi tầng lớp nhân dân nói chung, người tố cáo và người bị tố cáo nói riêng; kết hợp phổ biến, giáo dục pháp luật với hướng dẫn áp dụng pháp luật, trợ giúp pháp lý, tư vấn pháp luật.
Hai là, nâng cao ý thức tự giác chấp hành pháp luật của của người tố cáo và người bị tố cáo
Ý thức pháp luật của người dân nói chung, người tố cáo và người bị tố cáo nói riêng được hình thành từ hai yếu tố, đó là tri thức pháp luật và tình cảm pháp luật. Ý thức tự giác chấp hành pháp luật của nhân dân chỉ có thể được nâng cao khi công tác phổ biến pháp luật cho nhân dân được tiến hành thường xuyên, kịp thời và có tính thuyết phục. Nhìn chung, việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật cần: Đúng nội dung - đúng đối tượng - đúng mục đích - đúng lộ trình để bảo đảm vai trò cũng như hiệu quả của pháp luật trong điều chỉnh hành vi và nhận thức của các tầng lớp nhân dân nói chung, người tố cáo và người bị tố cáo nói riêng. Nhiều người tố cáo chưa có ý thức tự giác chấp hành pháp luật, cố tình không thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình khi tố cáo làm cho tình hình tố cáo phức tạp; hoặc có vụ việc đã được các ngành chức năng giải quyết, trả lời nhiều lần đúng quy định pháp luật, nhưng người dân vẫn không đồng ý, tiếp tục gửi đơn đến các cơ quan Đảng và Nhà nước ở Trung ương; hoặc có trường hợp người tố cáo bị kích động, xúi giục nên phát đơn tố cáo. Vì vậy, cần tiếp tục nâng cao ý thức tự giác chấp hành pháp luật của của người tố cáo và người bị tố cáo thông qua tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật về thực hiện quyền và nghĩa vụ của người tố cáo và người bị tố cáo thường xuyên, liên tục và bằng nhiều hình thức phong phú.
Ba là, nâng cao nhận thức của các cơ quan cơ quan nhà nước có thẩm quyền, người có thẩm quyền giải quyết tố cáo về vai trò, tầm quan trọng của thực hiện quyền và nghĩa vụ của người tố cáo và người bị tố cáo
Khi nhận thức được đầy đủ vai trò, ý nghĩa, tầm quan trọng của thực hiện quyền và nghĩa vụ của người tố cáo và người bị tố cáo thì các chủ thể có thẩm quyền sẽ chủ động thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình và lựa chọn phương thức phù hợp để bảo đảm thực hiện quyền và nghĩa vụ của người tố cáo và người bị tố cáo. Vì vậy, trong thời gian tới cần tiếp tục nâng cao nhận thức của Thủ trưởng quan cơ quan nhà nước có thẩm quyền, người có thẩm quyền giải quyết tố cáo về vai trò, tầm quan trọng của thực hiện quyền và nghĩa vụ của người tố cáo nhằm nhận diện đầy đủ bản chất, vai trò và tầm quan trọng của thực hiện quyền và nghĩa vụ của người tố cáo và người bị tố cáo
2.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về thực hiện quyền và nghĩa vụ của người tố cáo và người bị tố cáo
Hoàn thiện pháp luật là yêu cầu đầu tiên, quan trọng, có tính chất quyết định đến hiệu quả thực hiện quyền và nghĩa vụ của người tố cáo và người bị tố cáo. Hoạt động này đặt ra những đòi hỏi cụ thể đối với các cơ quan có thẩm quyền quản lý nhà nước về tố cáo, về cả phương thức thực hiện và nội dung trọng tâm hoàn thiện pháp luật về thực hiện quyền và nghĩa vụ của người tố cáo và người bị tố cáo.
2.2.1. Nâng cao chất lượng hoạt động xây dựng pháp luật
Hoạt động xây dựng pháp luật có rất nhiều nội dung nhưng trong thời gian tới, các cơ quan có thẩm quyền quản lý nhà nước về giải quyết tố cáo cần phải tập trung đổi mới công tác này, thường xuyên tổng kết thực tiễn, đúc rút kinh nghiệm, đánh giá việc thực hiện các văn bản pháp luật để có đề xuất, kiến nghị hoặc trực tiếp ban hành theo thẩm quyền nhiều văn bản với chất lượng cao hơn, phù hợp với yêu cầu thực tiễn. Thực hiện quyền và nghĩa vụ của người tố cáo và người bị tố cáo vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập, chưa được quy định rõ, kể cả trong Luật Tố cáo và các văn bản hướng dẫn. Vì vậy, cần sớm tổng kết thực tiễn toàn diện để từ đó có thể đề xuất sửa đổi, bổ sung chi tiết quy định về thực hiện quyền và nghĩa vụ của người tố cáo và người bị tố cáo, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho cơ quan, tổ chức và cá nhân liên quan trong quá trình áp dụng, nâng cao hiệu quả thực hiện quyền và nghĩa vụ của người tố cáo và người bị tố cáo.
Bên cạnh đó, công tác xây dựng văn bản pháp luật liên quan đến thực hiện quyền và nghĩa vụ của người tố cáo và người bị tố cáo cũng cần được chú trọng hơn, đặc biệt là về chất lượng các văn bản, bảo đảm tính thống nhất, tính hệ thống và tính khả thi. Để đạt được mục tiêu đó, cần nâng cao chất lượng đánh giá chính sách và những đề nghị ban hành hay sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật. Ngoài ra, để bảo đảm tính ổn định, lâu dài của các văn bản thì việc xây dựng các văn bản pháp luật liên quan đến thực hiện quyền và nghĩa vụ của người tố cáo và người bị tố cáo phải căn cứ trên nền tảng những định hướng lớn của Đảng và Nhà nước về những vấn đề liên quan đến lĩnh vực này.
Công tác xây dựng thể chế, hoàn thiện chính sách, pháp luật, văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến thực hiện quyền và nghĩa vụ của người tố cáo và người bị tố cáo đòi hỏi phải có sự tham gia rộng rãi của các nhà chuyên môn, tổ chức nhiều hội nghị, hội thảo lấy ý kiến trong quá trình xây dựng dự thảo trước khi ban hành.
2.2.2. Hoàn thiện nội dung pháp luật về thực hiện quyền và nghĩa vụ của người tố cáo và người bị tố cáo
Một là, mở rộng đối tượng tố cáo trong Luật Tố cáo năm 2018
Khoản 1, Điều 2 Luật Tố cáo năm 2018 quy định: “Tố cáo là việc cá nhân theo thủ tục quy định của Luật này báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật của bất kỳ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân”. Như vậy, so với Luật Tố cáo năm 2011 thì Luật Tố cáo năm 2018 đã mở rộng chủ thể có quyền tố cáo không chỉ là “công dân Việt Nam” mà là “cá nhân”. Khái niệm “cá nhân” rộng hơn khái niệm “công dân Việt Nam”, bởi khái niệm “cá nhân” bao gồm cả công dân Việt Nam, người nước ngoài và người không quốc tịch. Sở dĩ Luật Tố cáo năm 2018 mở rộng phạm vi chủ thể thực hiện quyền tố cáo là nhằm thể chế hóa nội dung, tinh thần của Hiến pháp năm 2013. Khoản 1, Điều 30 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Mọi người có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân”. Theo quy định này, tất cả các cá nhân (công dân Việt Nam, công dân nước ngoài, người không có quốc tịch) đều có quyền tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Mặc dù quy định chủ thể thực hiện quyền tố cáo của Luật Tố cáo năm 2018 đã thể chế hóa phù hợp với nội dung và tinh thần của Hiến pháp năm 2013, nhưng đối tượng tố cáo trong Luật Tố cáo năm 2018 lại không phù hợp với Hiến pháp năm 2013, thậm chí là hạn chế quyền tố cáo của cá nhân, không mang tính khả thi trên thực tiễn, chưa khắc phục được hạn chế, bất cập của đối tượng tố cáo trong Luật Tố cáo năm 2011.
Trong khi đó, Hiến pháp năm 2013 quy định đối tượng tố cáo là “những việc làm trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân”. Hành vi “trái pháp luật” chỉ là một trong bốn dấu hiệu của “vi phạm pháp luật”. Hành vi trái pháp luật là biểu hiện ra bên ngoài thế giới khách quan, nên rất dễ để cá nhân nhận biết. Cá nhân chỉ cần căn cứ vào các quy định của pháp luật hiện hành là xác định được hành vi đó có trái pháp luật hay không. Những hành vi ngược với cách xử sự nêu ra trong quy phạm pháp luật bị coi là hành vi trái pháp luật.
Bên cạnh đó, việc xác định hành vi trái pháp luật đó có gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức là rất khó trên thực tế. Hiện nay chưa có các căn cứ rõ ràng để xác định một hành vi trái pháp luật có gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức hay không và việc xác định sẽ phụ thuộc lớn vào ý chí chủ quan của chủ thể có liên quan.
Như vậy, đối tượng tố cáo trong Luật Tố cáo năm 2018 là hẹp hơn so với quy định của Hiến pháp năm 2013. Vì vậy, tác giả cho rằng cần phải sửa đổi khoản 1, Điều 2 Luật Tố cáo năm 2018 theo hướng: “Tố cáo là việc cá nhân theo thủ tục quy định của Luật này báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền biết về những việc làm trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân, bao gồm: a) Tố cáo việc làm trái pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ; b) Tố cáo việc làm trái pháp luật về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực”. Luật Tố cáo năm 2018 cần phải thể hiện đúng nội dung, tinh thần của Hiến pháp năm 2013 về quyền tố cáo của mọi người, khi đó mới tạo điều kiện thuận lợi mọi người chủ động, tích cực tham gia hoạt động quản lý nhà nước, thúc đẩy thượng tôn pháp luật trong hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Hai là, mở rộng hình thức tố cáo trong Luật Tố cáo năm 2018
Luật Tố cáo năm 2018 đã có quy định về quyền, nghĩa vụ của người tố cáo, người bị tố cáo và người giải quyết tố cáo, song nhìn chung chưa tạo điều kiện thuận lợi cho người dân trong quá trình thực hiện quyền tố cáo, chưa ghi nhận đầy đủ các hình thức để người dân thực hiện quyền tố cáo, vì vậy chưa tạo ra cơ chế khuyến khích, động viên người dân báo cho các cơ quan nhà nước về hành vi vi phạm pháp luật. Quyền, nghĩa vụ của người tố cáo, người bị tố cáo được quy định đến nay vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu phòng, chống các vi phạm pháp luật, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Luật Tố cáo năm 2018 và các nghị định hướng dẫn thi hành quy định không xem xét, xử lý đối với tố cáo không rõ họ tên, địa chỉ người tố cáo. Tuy nhiên, trên thực tế nhiều vụ việc tố cáo không rõ họ tên địa chỉ, bút tích của người tố cáo nhưng có nội dung rõ ràng, có cơ sơ để thẩm tra, xác minh thì vẫn được một số cơ quan xem xét, giải quyết, ở một số nơi lại không xem xét với lý do thực hiện đúng quy định của pháp luật. Thực tiễn trên gây ra sự thiếu thống nhất trong hoạt động áp dụng pháp luật. Bên cạnh đó, pháp luật hiện hành chưa quy định về việc tiếp nhận tố cáo thông qua trang thông tin điện tử, qua điện thoại hoặc hòm thư điện tử… vì vậy đã bỏ lọt nhiều thông tin có giá trị của người dân về việc phát giác các hành vi vi phạm. Do đó, một số bộ ngành, địa phương kiến nghị cần phải cân nhắc trong việc xem xét các loại tố cáo này để đảm bảo quyền của người dân thực hiện quyền tố cáo giúp các cơ quan giải quyết tố cáo giải quyết, xử lý kịp thời người có hành vi vi phạm pháp luật, góp phần giữ vững ổn định, trật tự an toàn xã hội và làm trong sạch bộ máy nhà nước.
Mặt khác, Điều 22 Luật Tố cáo năm 2018 chỉ cho phép người tố cáo được tiến hành bằng đơn hoặc trình bày trực tiếp tại cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. Về bản chất, hình thức tố cáo này sẽ dễ dẫn đến lộ lọt thông tin người tố cáo. Bởi suy cho cùng, người tố cáo luôn muốn thực hiện tố cáo thông qua các hình thức mang tính bảo mật cao hơn so với hình thức trực tiếp tố cáo như email, fax, điện thoại trực tiếp… Các hình thức này sẽ giảm thiểu số lượng người biết được thông tin người tố cáo, tránh lộ lọt thông tin, cũng như dễ truy xuất người có trách nhiệm bảo vệ thông tin người tố cáo.
Vì vậy, Luật Tố cáo năm 2018 cần tạo điều kiện tốt nhất cho người tố cáo, pháp luật nên mở rộng hình thức tố cáo nhằm chuyển tải đơn thư đến chủ thể có thẩm quyền giải quyết như: Trực tiếp đến nộp đơn tố cáo, trình bày miệng với cơ quan chức năng, gửi đơn thư qua đường bưu điện, qua hòm thư điện tử của cơ quan, fax, qua điện thoại, qua băng ghi âm…, việc pháp luật mở rộng phạm vi về hình thức và phương thức tiếp nhận đơn thư sẽ tạo tiền đề thúc đẩy người có quyền tố cáo thực hiện quyền của mình.
Tuy nhiên, cần phải có các quy định nhằm ngăn chặn việc lạm dụng các hình thức tố cáo mới được ghi nhận để tố cáo tràn lan, thiếu căn cứ, lợi dụng quyền tố cáo để xâm hại quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Ba là, bổ sung giải quyết trường hợp người tố cáo rút toàn bộ nội dung tố cáo trong giai đoạn xử lý đơn vào Điều 33 Luật Tố cáo năm 2018
Điều 33 Luật Tố cáo năm 2018 quy định người tố cáo có quyền rút toàn bộ nội dung tố cáo hoặc một phần nội dung tố cáo trước khi người giải quyết tố cáo ra kết luận nội dung tố cáo, việc rút tố cáo phải được thực hiện bằng văn bản. Tại Điều 34 Luật Tố cáo 2018 quy định Người giải quyết tố cáo ra quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ việc giải quyết tố cáo, trong đó có trường hợp người tố cáo rút toàn bộ nội dung tố cáo thì Người giải quyết tố cáo ra quyết định đình chỉ việc giải quyết tố cáo. Pháp luật tố cáo mới điều chỉnh trường hợp người tố cáo rút tố cáo trong giai đoạn vụ việc tố cáo đó đã được người có thẩm quyền ban hành Quyết định thụ lý tố cáo, cần bổ sung giải quyết trường hợp người tố cáo rút toàn bộ nội dung tố cáo trong giai đoạn xử lý đơn vào Điều 33 Luật Tố cáo năm 2018, Nghị định số 31/2019/NĐ-CP ngày 10 tháng 4 năm 2019 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp tổ chức thi hành Luật Tố cáo và Thông tư 05/2021/TT-TTCP ngày 01/10/2021 của Tổng Thanh tra Chính phủ quy định quy trình xử lý đơn khiếu nại, đơn tố cáo, đơn kiến nghị, phản ánh.
(còn nữa)
CN. Đậu Thị Hiền
Viện Chiến lược và Khoa học thanh tra
(Nguồn: http://www.issi.gov.vn/News/NewsEventDetail.aspx?9)