Thông tin chi tiết
Phân biệt phản ánh hành vi vi phạm pháp luật và tố cáo từ lý luận đến thực tiễn (P2 - Hết)

 

3. Phân biệt giữa phản ánh với kiến nghị và tố cáo

 3.1. Phân biệt phản ánh với kiến nghị

 Như đã phân tích ở trên, phản ánh là việc cơ quan, tổ chức, cá nhân nêu, hoặc đưa ra những thông tin phản chiếu, tái hiện lại những sự việc, hiện tượng đã hoặc đang xảy ra để cá nhân, cơ quan, tổ chức biết. Sự việc phản ánh rất đa dạng, có thể là những thông tin về một hành vi, việc làm nào đó do con người gây ra, thực hiện, cũng có thể là một hiện tượng thiên nhiên. Vấn đề này có thể là tích cực, hoặc tiêu cực (vi phạm pháp luật, đạo đức, nguyên tắc, điều lệ…). Mục đích của người phản ánh có thể rõ ràng hoặc không rõ ràng (mục đích thường là ẩn sau đối tượng được phản ánh).

 Phản ánh được sử dụng rộng rãi trong mọi phương diện, nhất là phương diện xã hội. Người phản ánh có thể đưa những thông điệp mà họ muốn nói đến mọi chủ thể, thậm chí đến cả chính người được phản ánh thông qua các cách thức khác nhau về một hành vi, việc làm, cử chỉ, lời nói của một cá nhân hay sự vật, hiện tượng như một bức ảnh, một đoạn video, một bức họa châm biếm… hoặc nhại lại chính lời nói, cử chỉ, việc làm của người bị phản ánh để cho mọi người đánh giá, phán xét, bình luận, xử lý và để chính người có hành vi, việc làm, cử chỉ đó tự nhìn nhận lại chính bản thân mình.

 Phản ánh không nhất thiết phải nói rõ về đối tượng được phản ánh, cũng không nhất thiết phải nói danh tính người phản ánh. Việc xác định rõ về người phản ánh và đối tượng được phản ánh thuộc về người tiếp nhận thông tin. Người tiếp nhận thông tin cũng có thể làm rõ hoặc không làm rõ về đối tượng phản ánh, người phản ánh mà điều đó thuộc về quyền của người tiếp nhận.

 Kiến nghị là việc đưa ra các thông tin, thông điệp một cách rõ ràng, có căn cứ và đề nghị cá nhân, cơ quan, tổ chức có trách nhiệm phải làm rõ hoặc xử lý theo quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của mình.

 Khác với phản ánh, kiến nghị ngoài việc nêu hoặc đưa ra những thông tin, sự việc mà người kiến nghị cho rằng nó chưa đúng, chưa phù hợp, không khả thi, có thể gây ra những hậu quả bất lợi, không bình thường nhất định cần phải có sự can thiệp, vào cuộc của cá nhân, người có thẩm quyền để xử lý, điều chỉnh, bổ sung đem lại những lợi ích chung cho xã hội, nhà nước hoặc cá nhân, người kiến nghị có những yêu cầu, đề nghị cụ thể hoặc đề xuất những biện pháp, giải pháp, cách thực hiện mà người kiến nghị cho rằng nó có lợi hơn, phù hợp hơn, hiệu quả hơn, đúng đắn hơn.

 Mục đích của phản ánh chỉ là đưa, nêu ra các thông tin về một sự việc, hay hiện tượng nào đó mà không thể hiện mục đích cụ thể. Đối với kiến nghị, người kiến nghị có mục đích và giải pháp cụ thể giúp cho cá nhân, cơ quan có thẩm quyền xử lý, khắc phục, điều chỉnh, thực hiện để cải thiện giúp cho nội dung mà người kiến nghị đưa ra được tốt hơn.

Điểm khác biệt nữa giữa kiến nghị và phản ánh là nội dung kiến nghị phải được thể hiện dưới dạng văn viết, văn bản; chủ thể kiến nghị, nội dung kiến nghị, người được kiến nghị phải được xác định. Thuật ngữ kiến nghị thường được sử dụng trong các đạo luật để điều chỉnh các quan hệ công việc giữa công nhân, cơ quan, tổ chức với cơ quan nhà nước; giữa nội bộ cơ quan nhà nước với cơ quan nhà nước.

 3.2. Phân biệt phản ánh, kiến nghị với tố cáo

 Giữa phản ánh, kiến nghị và tố cáo có sự khác biệt.

 - Về mục đích: Việc tố cáo hướng tới mục đích là để xử lý những người có hành vi vi phạm pháp luật; ngăn ngừa những hậu quả có thể xảy ra gây thiệt hại cho cá nhân, cho xã hội nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chung hợp pháp. Đối với kiến nghị, phản ánh là việc công dân nêu lên, đưa ra, bày tỏ quan điểm và đề xuất với các cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xem xét lại, điều chỉnh lại hoặc xử lý kịp thời những sự việc phát sinh làm ảnh hưởng đến các hoạt động bình thường hoặc gây thiệt hại đến lợi ích hợp pháp trong các lĩnh vực của đời sống xã hội của các cá nhân, tập thể, tổ chức, doanh nghiệp.

 - Về chủ thể: chủ thể tố cáo là bất cứ cá nhân nào khi phát hiện hành vi vi phạm pháp luật của cá nhân, tổ chức khác báo với cá nhân, tổ chức có thẩm quyền. Pháp luật không quy định chủ thể tố cáo là cơ quan, tổ chức. Quy định này cho thấy trách nhiệm cá nhân trong việc tố cáo. Còn đối với phản ánh, kiến nghị là công dân, cơ quan, tổ chức nhà nước khi thấy những hành vi làm ảnh hưởng xấu đến hoạt động bình thường hoặc gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, cá nhân, tổ chức khác thì nêu lên, đề xuất với các cơ quan, cá nhân có thẩm quyền cần áp dụng những giải pháp, kịp thời xử lý những vấn đề nêu trên, hạn chế hậu quả xấu xảy ra với cá nhân, tổ chức, nhà nước và xã hội. Trong một số trường hợp, phản ánh không xác định chủ thể là ai.

 - Về đối tượng: tố cáo luôn xác định rõ đối tượng có hành vi vi phạm, đồng thời có chứng cứ, tài liệu chứng minh cho hành vi sai phạm đó. Còn phản ánh có thể không xác định rõ người có hành vi sai phạm, địa điểm cụ thể, thời gian xảy ra của hành vi bị phản ánh; không có chứng cứ, tài liệu chứng minh, và cũng không có nghĩa vụ phải chứng minh.

 - Về hình thức thực hiện, người tố cáo phải thực hiện việc tố cáo bằng các hình thức do pháp luật quy định, đó là “việc tố cáo được thực hiện bằng đơn hoặc được trình bày trực tiếp tại cơ quan, tổ chức có thẩm quyền[6]. Người phản ánh có thể thực hiện việc phản ánh qua điện thoại, qua mạng thông tin điện tử, bằng các bài viết, phóng sự. Người kiến nghị thực hiện việc kiến nghị trực tiếp, bằng đơn, văn bản kiến nghị.

 - Về trách nhiệm của người tiếp nhận tố cáo, kiến nghị, phản ánh. Trong mọi trường hợp, người tiếp nhận nội dung tố cáo đều có trách nhiệm xử lý, giải quyết nội dung tố cáo nếu thuộc thẩm quyền hoặc chuyển đến cá nhân, cơ quan có thẩm quyền giải quyết theo quy định. Đối với phản ánh, trong một số trường hợp, thông tin phản ánh chỉ mang tính tham khảo. Việc tiếp nhận, giải quyết phản ánh do người đứng đầu cơ quan, tổ chức quyết định.

 - Về trách nhiệm pháp lý: Người tố cáo phải có trách nhiệm giải trình đối với nội dung tố cáo, hợp tác với người giải quyết tố cáo khi có yêu cầu. Trong trường hợp tố cáo với động cơ bôi nhọ, xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm của người khác thì phải chịu trách pháp lý. Đối với kiến nghị, phản ánh, người kiến nghị, phản ánh cũng chịu trách nhiệm pháp lý nếu có động cơ cá nhân là bôi nhọ người khác. Nhưng trong nhiều trường hợp, người phản ánh không có nghĩa vụ phải giải trình, hợp tác với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Họ cũng không có nghĩa vụ phải đưa ra những bằng chứng cụ thể. Bởi họ chỉ phản ánh một cách “trung thực” những gì mà họ thấy, họ biết, họ cho rằng đó là sai phạm, hoặc nghi ngờ là sai phạm. Trong những trường hợp như vậy, người tiếp nhận thông tin có thể coi đó là những thông tin tham khảo hoặc phục vụ cho công tác quản lý, cho quá trình điều tra, xác minh và chính họ mới là người có trách nhiệm phải làm rõ sự thật mà người phản ánh cung cấp, đưa ra.

 - Về quy trình giải quyết: Đối với tố cáo, pháp luật quy định rất rõ quy trình tiếp nhận tố cáo, tiếp nhận, xử lý đơn thư và giải quyết tố cáo. Đối với phản ánh, kiến nghị, chúng ta mới chỉ có quy định tiếp nhận, xử lý đơn thư kiến nghị, phản ánh[7]; chưa có văn bản cụ thể nào quy định về trình tự giải quyết. Quy định về giải quyết kiến nghị có thể được giải quyết theo các văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành. Phản ánh có thể chỉ là các thông tin mang tính tham khảo, cơ quan có trách nhiệm, thẩm quyền tùy theo từng trường hợp cụ thể có thể tiến hành kiểm tra, thanh tra, điều tra theo quy định.

 Như vậy, có thể thấy phản ánh rất đa dạng, phức tạp. Nó có sự khác biệt so với kiến nghị, tố cáo. Từ những phân tích nêu trên có thể đi đến định nghĩa về phản ánh, kiến nghị như sau:

 Phản ánh được hiểu là việc cá nhân, cơ quan, tổ chức nêu lên, đưa ra hoặc trình bày ý kiến, quan điểm, suy nghĩ về một sự việc, hiện tượng, việc làm nào đó mà họ cho rằng điều đó là không bình thường, sai trái, không đúng với quy định, đường lối chính sách của đảng, pháp luật nhà nước; không phù hợp với thuần phong mỹ tục... để mọi chủ thể tiếp nhận có những phán xét, bình luận, đánh giá, lên án; hoặc để cơ quan, cá nhân có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước có biện pháp xử lý cho phù hợp, đúng với quy định pháp luật và chuẩn mực đạo đức xã hội.

 Kiến nghị được hiểu là việc cá nhân, cơ quan, tổ chức đưa ra hoặc trình bày về một sự việc, hiện tượng, việc làm nào đó mà họ cho rằng điều đó là không bình thường, sai trái, không đúng với quy định, đường lối chính sách của đảng, pháp luật nhà nước; không phù hợp với thuần phong mỹ tục... và kiến nghị, đề xuất với cơ quan, cá nhân có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước biện pháp xử lý cho phù hợp, đúng với quy định pháp luật và chuẩn mực đạo đức xã hội; hoặc bãi bỏ, điều chỉnh bổ sung hay ban hành các chính sách, quy định phù hợp với các hoạt động kinh doanh, đời sống xã hội.

                              

 4. Phân biệt phản ánh hành vi vi phạm pháp luật với tố cáo hành vi vi phạm pháp luật

 Phản ánh về hành vi vi phạm pháp luật được hiểu là việc cá nhân, cơ quan, tổ chức nêu lên, đưa ra hoặc trình bày ý kiến, quan điểm, suy nghĩ về một hành vi, việc làm của cơ quan, đơn vị, tổ chức nào đó. Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật là việc cá nhân, cơ quan, tổ chức hoặc cán bộ, công chức theo thủ tục luật định báo, cung cấp hoặc tiết lộ các thông tin về một hành vi, việc làm vi phạm pháp luật của bất kỳ cá nhân, cơ quan, tổ chức, đơn vị nào cho cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước biết để ngăn ngừa, giải quyết và xử lý theo quy định của pháp luật.

 Xét về bản chất, phản ánh về một hành vi vi phạm pháp luật chính là tố cáo hiểu theo nghĩa rộng, hay là một dạng cụ thể của tố cáo. Bởi: “Tố cáo là việc cá nhân, cơ quan, tổ chức cho rằng một hành vi, việc làm của bất kỳ cá nhân, cơ quan, tổ chức nào là vi phạm pháp luật, sai trái làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp, uy tín và danh dự của cộng đồng xã hội, của nhà nước, cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc của cá nhân; ảnh hưởng đến chất lượng và hiệu quả công việc của tổ chức báo, cung cấp hoặc tiết lộ với người, cơ quan có thẩm quyền để xử lý, ngăn ngừa hoặc khắc phục hậu quả do hành vi, việc làm đó gây ra[8]. Nếu có sự khác biệt giữa tố cáo và phản ánh về hành vi vi phạm pháp luật của một cá nhân, cơ quan, tổ chức nào đó thì sự khác biệt đó là do pháp luật quy định, hoặc do sự nhìn nhận chủ quan của chúng ta.

 Hiện tại pháp luật Việt Nam chưa thừa nhận tố cáo nặc danh, mạo danh. Tức là không giải quyết đơn thư tố cáo không rõ họ tên, địa chỉ của người tố cáo hoặc qua kiểm tra, xác minh không xác định được người tố cáo hoặc người tố cáo sử dụng họ tên của người khác để tố cáo. Tuy nhiên, đối với những đơn thư tố cáo nặc danh, mạo danh nhưng có nội dung rõ ràng về người có hành vi vi phạm pháp luật, có tài liệu, chứng cứ cụ thể về hành vi vi phạm pháp luật và có cơ sở để thẩm tra, xác minh thì cơ quan, tổ chức, cá nhân tiếp nhận tiến hành việc thanh tra, kiểm tra theo thẩm quyền hoặc chuyển đến cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền để tiến hành việc thanh tra, kiểm tra phục vụ cho công tác quản lý. Những đơn thư vậy được Luật Tố cáo năm 2018 gọi là “thông tin có nội dung tố cáo”, và thực tế được xếp vào dạng đơn phản ánh. Nhưng nếu pháp luật tố cáo thừa nhận tố cáo nặc danh thì tố cáo không rõ tên, địa chỉ của người tố cáo (hay còn gọi là phản ánh) sẽ được giải quyết như tố cáo. Điều này là do pháp luật thừa nhận. Nhưng dù giải được giải quyết hay không giải quyết tố cáo nặc danh, mạo danh vẫn là tố cáo. 

Hoặc, pháp luật tố cáo quy định việc tố cáo được thực hiện bằng đơn hoặc được trình bày trực tiếp tại cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. Các hình thức tố cáo khác (như qua fax, thư điện tử, điện thoại…) không được công nhận. Các hình thức tố cáo đó có thể được coi là phản ánh (do sự nhìn nhận chủ quan của chúng ta). Và khi pháp luật thừa nhận hình thức tố cáo này, thì nó trở thành tố cáo.

 Như vậy, do quy định của pháp luật nên giữa tố cáo hành vi vi phạm pháp luật và phản ánh về hành vi vi phạm pháp luật có những điểm khác biệt[9]. Giữa phản ánh hành vi vi phạm pháp luật và tố cáo có sự chuyển đổi cho nhau, điều này phụ thuộc vào sự nhìn nhận của chúng ta và thừa nhận của pháp luật về tố cáo ở phạm vi rộng hay hẹp. Nếu chúng ta nhìn nhận và pháp luật thừa nhận tố cáo ở phạm vi rộng thì phản ánh về hành vi vi phạm pháp luật là tố cáo hành vi vi pháp luật, hay là một dạng của tố cáo hành vi vi phạm pháp luật. Nếu nhìn nhận và pháp luật thừa nhận tố cáo ở phạm vi hẹp, thì một phần tố cáo hành vi vi pháp luật được coi là phản ánh về hành vi vi pháp luật.

 

TS. Mai Văn Duẩn

Ban tiếp công dân tỉnh Bắc Ninh

 

(Nguồn: http://www.issi.gov.vn/phan-biet-phan-anh-hanh-vi-vi-pham-phap-luat-va-to-cao-tu-ly-luan-den-thuc-tien_t164c2715n3209tn.aspx?currentpage=1).


[1] Trung tâm T pháp luTTrung  Ti T pháp lu. Trong h, tr. 673.

[2] Trung tâm Từ điển học, Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, tr.983.

[3] Htr.983.iếng Việt, NXB Đà NẵngoHtr.983.iếng VTHtr.983.iếng Việt, NXB Đà, Nhà xu.iếng Việt, NXB Đà Nẵngo Nhà xu.

[4] khoNhà , Đihà xu.iếng Việt, NXB Đà NẵngoĐihà xu.iế

[5] khoihà , Đihà xu.iếng Việt, NXB Đà NẵngoĐihà xu.iế

[6] Đihà xu.iếng Việt, NXB Đà Nẵ

[7] Nghhà xu.iếng Việt, NXB Đà Nẵngoghhà xu.iếng Việt, NXB Đà Nẵngquyhà xu.iếng Việt, NXB Đà Nẵngghyhà xu.iếng Việt, NXB Đà Nẵngếy định hành chính; Nghị định số 92/2017/NĐ-CP ngày 07/8/2017 của Chinh phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của các nghị định liên quan đến các thủ tục hành chính và các văn bản quy phạm chuyên ngành; Thông tư 06/2014/TT-TTCP của Thanh tra Chính phủ ngày 31/10/2014 quy định về quy trình tiếp công dân; Thông tư số 07/2014/TT-TTCP của Thanh tra Chính phủ ngày 31/10/2014 quy định về quy trình xử lý đơn khiếu nại, đơn tố cáo, đơn phản ánh, kiến nghị.

[8] Mai Văn Du0/2008/NĐ-CP cà NẵngoMai Văn Du0/2008/NĐ-CP cà Nẵngquyi Văn Du0/2

[9] Sai Văn Du0/2008/NĐ-CP cà NẵngoSai Văn Du0/2008/NĐ-CP cà Nẵngquyi Văn Du0/2008/NĐ-CP

 





Các tin khác

Hỗ trợ trực tuyến
 ĐT : 0222 3875002
Fax : 0222 3874300
bantiepcongdanbacninh@gmail.com
Trao đổi - Góp ý
Liên kết