Thông tin chi tiết
Quy trình tiếp công dân tố cáo (Phần 2 - hết)

 

Phân biệt người tố cáo với người tiết lộ thông tin/loan tin

Theo Từ điển Tiếng Việt, tiết lộ là “để lộ ra điều đang cần giữ bí mật

[1]. Như vậy, người tiết lộ thông tin nội bộ có thể được hiểu là người để lộ các thông tin của cơ quan, đơn vị, tổ chức (sau đây gọi chung là tổ chức) mà người đó có trách nhiệm phải bảo mật cho người thứ ba hoặc công chúng biết. Sự bảo mật ở đây có thể là bảo mật theo quy định của tổ chức hay quy định của pháp luật, vì vậy, người tiết lộ thông tin sẽ phải chịu trách nhiệm trước tổ chức của mình và/hoặc trước pháp luật.

  Người tiết lộ thông tin trước hết phải là người của tổ chức, cơ quan, đơn vị có thông tin bị lộ. Họ có thể là người đang lưu giữ các thông tin và có trách nhiệm phải bảo mật, nhưng cũng có thể là người không lưu giữ thông tin nhưng biết được thông tin đó và tiết lộ ra bên ngoài. Việc để lộ thông tin có thể được thực hiện một cách công khai hoặc bí mật, một cách vô ý hoặc cố ý.

Thông tin bị lộ ra bên ngoài phải ảnh hưởng tiêu cực đến cá nhân, tổ chức đó. Mức độ ảnh hưởng phụ thuộc vào tính chất, mức độ, ý nghĩa của thông tin và mục đích của việc tiết lộ thông tin, và vào người tiếp nhận thông tin. Thông tin bị tiết lộ có thể là những thông tin quan trọng được bảo mật, nhưng cũng có thể là những thông tin về một hành vi, vụ việc bất hợp pháp.

Người cố ý tiết lộ thông tin nhằm những mục đích khác nhau, song có thể quy lại thành hai dạng, đó là mục đích cá nhân tiêu cực và mục đích chung tích cực.

Người tiết lộ thông tin với mục đích cá nhân tiêu cực là người đưa các thông tin ra bên ngoài nhằm trục lợi cá nhân. Bản thân người đó có thể bị mua chuộc để bán thông tin hoặc được cài cắm để thu thập, khai thác thông tin làm nguy hại cho tổ chức mình đang làm việc. Những người làm công việc này có thể bị quy là làm gián điệp, mật thám hoặc bị quy tội cố ý làm lộ bí mật nhà nước. Họ thường được gọi với nghĩa tiêu cực là người thông tin hay người loan tin.

Người tiết lộ thông tin với mục đích chung tích cực là người thực hiện hành vi đó nhằm vạch trần các sai phạm để bảo vệ lợi ích chung. Người làm việc này có thể được coi như là người tố cáo, hoặc người đồng tố cáo (tố cáo trong nội bộ tổ chức).

Người tiết lộ thông tin với mục đích chung tích cực cũng có thể thực hiện việc đó một cách hợp pháp hoặc không hợp pháp. Trường hợp được coi là hợp pháp khi họ cung cấp các thông tin theo quyền, nghĩa vụ mà pháp luật quy định cho họ (gọi là người cung cấp thông tin); hoặc tiết lộ thông tin về một hành vi bất chính, phạm pháp mà không thuộc diện pháp luật cấm (có thể được coi là người tố cáo trong nội bộ tổ chức). Trong trường hợp này, họ sẽ được pháp luật bảo vệ. Trường hợp bị coi là bất hợp pháp khi họ cung cấp thông tin ngoài phạm vi mà pháp luật cho phép, hoặc cung cấp, tiết lộ các thông tin không được phép tiết lộ theo luật. Trong trường hợp này, họ có thể bị truy cứu trách nhiệm pháp lý.

Ranh giới giữa người tố cáo trong nội bộ tổ chức và người tiết lộ thông tin làm lộ bí mật nhà nước là rất mong manh, vì thế pháp luật cần có những quy định rõ ràng và cụ thể về bí mật nhà nước và những thông tin được phép tiết lộ, cung cấp. Trong thực tế, người tố cáo dễ bị chủ thể bị tố cáo quy vào tội cố ý làm lộ bí mật nhà nước, hoặc cố ý tiết lộ thông tin nội bộ.

Điểm khác biệt giữa người tố cáo trong nội bộ tổ chức với người thông tin/loan tin ở chỗ, người tố cáo tiết lộ thông tin hoàn toàn mang tính tự nguyện, nhằm mục đích để lộ rõ hành vi sai trái trước công chúng, cá nhân, cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Trong khi đó, người thông tin/loan tin thường mang mục đích tư lợi cá nhân và thông tin mà họ tiết lộ thường có tính chất quan trọng và được bảo mật.

Phân biệt người tố cáo với người làm chứng (hay người chứng kiến)

Làm chứng là việc “đứng ra xác nhận những điều mà mình đã thấy[2]. Như vậy, có thể hiểu người làm chứng là người đứng ra xác nhận những điều mà họ thấy để làm rõ tình tiết của một sự việc nào đó.

Điểm giống nhau giữa người tố cáo và người làm chứng thể hiện ở việc họ “đều biết những thông tin liên quan trực tiếp đến vi phạm pháp luật và đều phải chịu trách nhiệm pháp lý về những thông tin mà mình đưa ra[3]. Chính vì vậy, trong một số vụ việc cụ thể, người làm chứng có thể đồng thời là người tố cáo.

Tuy nhiên, giữa người tố cáo và người làm chứng có nhiều điểm khác biệt. Do tố cáo vừa là quyền vừa là nghĩa vụ, còn làm chứng chỉ là nghĩa vụ của công dân nên chỉ trong trường hợp tố cáo là nghĩa vụ mà người tố cáo không thực hiện thì mới có thể bị truy cứu trách nhiệm về tội “không tố giác tội phạm” theo Điều 390 Bộ luật Hình sự năm 2015; còn người làm chứng không thực hiện nghĩa vụ thì trong mọi trường hợp đều có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “từ chối khai báo” theo điều 383 Bộ luật Hình sự. Mặc dù đều biết về hành vi vi phạm nhưng người tố cáo là người chủ động báo cáo (tố giác) với nhà chức trách, còn người làm chứng thì chỉ khai báo khi bị cơ quan tiến hành tố tụng triệu tập. Nếu người làm chứng chủ động tố cáo hành vi phạm tội thì trong trường hợp này họ vừa là người làm chứng vừa là người tố cáo.

Từ phương diện pháp luật hình sự, việc bảo vệ người làm chứng có tính chất hệ trọng hơn so với bảo vệ người tố cáo, nhưng có phạm vi hẹp hơn (thường chỉ tập trung vào việc bảo vệ an toàn tính mạng, thân thể, sức khỏe, danh dự). Bảo vệ người tố cáo tuy không hệ trọng bằng bảo vệ người làm chứng nhưng có phạm vi rộng hơn, cụ thể là ngoài việc bảo vệ về tính mạng, sức khỏe, danh dự còn phải bảo vệ về chính trị, kinh tế, việc làm, thậm chí cả về tâm lý.

4. Quy trình tiếp công dân tố cáo

Quy trình tiếp công dân có thể chia làm 03 bước: 

Bước 1. Xác định nhân thân của người tố cáo, giữ bí mật và bảo vệ người tố cáo

 

- Xác định nhân thân của người tố cáo:  

 

+ Khi tiếp người tố cáo, người tiếp công dân yêu cầu người tố cáo nêu rõ họ tên, địa chỉ hoặc xuất trình giấy tờ tùy thân.  

 

+ Khi công dân xuất trình giấy tờ tùy thân thì người tiếp công dân kiểm tra tính hợp lệ của giấy tờ đó.

- Giữ bí mật và bảo vệ người tố cáo, người thân thích của người tố cáo:  

 

+ Trong quá trình tiếp người tố cáo, người tiếp công dân phải giữ bí mật họ tên, địa chỉ, bút tích người tố cáo trừ khi người tố cáo đồng ý công khai; không được tiết lộ những thông tin có hại cho người tố cáo; nếu thấy cần thiết hoặc khi người tố cáo yêu cầu thì người tiếp công dân áp dụng những biện pháp cần thiết hoặc kiến nghị áp dụng những biện pháp cần thiết để bảo vệ người tố cáo, người thân thích của người tố cáo.   

+ Đơn yêu cầu bảo vệ được thực hiện theo mẫu. 

Bước 2. Nghe, ghi chép nội dung tố cáo và tiếp nhận thông tin, tài liệu 

                Bước 2.1.  Nghe, ghi chép nội dung tố cáo

 

- Trường hợp người tố cáo có đơn:

+ Nếu người tố cáo có đơn trình bày nội dung rõ ràng, đầy đủ theo quy định (có mẫu) thì người tiếp công dân cần xác định nội dung vụ việc, yêu cầu của người tố cáo để xử lý cho phù hợp.

Nội dung đơn bao gồm: ngày, tháng, năm tố cáo; họ tên, địa chỉ của người tố cáo, cách thức liên hệ với người tố cáo; hành vi vi phạm pháp luật bị tố cáo; người bị tố cáo và các thông tin khác có liên quan. Trường hợp nhiều người cùng tố cáo về cùng một nội dung thì trong đơn tố cáo còn phải ghi rõ họ tên, địa chỉ, cách thức liên hệ với từng người tố cáo; họ tên của người đại diện cho những người tố cáo.

+ Nếu nội dung đơn tố cáo không rõ ràng, chưa đầy đủ như nội dung nêu trên thì người tiếp công dân đề nghị người tố cáo viết lại đơn hoặc viết bổ sung vào đơn những nội dung chưa rõ, còn thiếu.

Người tố cáo phải ký tên hoặc điểm chỉ vào đơn tố cáo.

- Trường hợp người tố cáo không có đơn:

+ Nếu công dân trình bày trực tiếp thì người tiếp công dân hướng dẫn công dân viết đơn hoặc ghi chép đầy đủ, trung thực, chính xác nội dung tố cáo; nội dung nào chưa rõ thì đề nghị người tố cáo trình bày thêm, sau đó đọc lại cho người tố cáo nghe và đề nghị họ ký tên hoặc điểm chỉ xác nhận vào văn bản, trong đó ghi rõ nội dung theo quy định trên.

+ Trường hợp nhiều người đến tố cáo về cùng một nội dung thì người tiếp công dân hướng dẫn người tố cáo cử người đại diện để trình bày nội dung tố cáo. Người tiếp công dân ghi lại nội dung tố cáo bằng văn bản theo quy định trên. 

- Trường hợp đơn tố cáo có nội dung khiếu nại hoặc kiến nghị, phản ánh thì người tiếp công dân hướng dẫn công dân viết thành đơn tố cáo riêng để thực hiện việc tố cáo đến cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.  

     Bước 2.2.  Tiếp nhận thông tin, tài liệu, bằng chứng do người tố cáo cung cấp

 

Khi tiếp nhận thông tin, tài liệu, bằng chứng do người tố cáo cung cấp thì người tiếp công dân phải làm giấy biên nhận, trong đó ghi rõ từng loại thông tin, tài liệu, bằng chứng, tình trạng thông tin, tài liệu, bằng chứng, xác nhận của người cung cấp. Giấy biên nhận được lập thành 03 bản, 01 bản giao cho người tố cáo, 01 bản lưu vào hồ sơ, 01 bản cán bộ tiếp công dân lưu (có mẫu). 

Bước 3. Phân loại, xử lý đơn tố cáo tiếp nhận qua hoạt động tiếp công dân 

                Bước 3.1.  Xác định nội dung, yêu cầu của người tố cáo 

 

Sau khi nghe, ghi chép nội dung tố cáo, nghiên cứu sơ bộ đơn tố cáo và các thông tin, tài liệu, bằng chứng do người tố cáo cung cấp, người tiếp công dân phải xác định được những nội dung sau:

- Địa điểm, thời gian phát sinh vụ việc.

- Người bị tố cáo là cá nhân, cơ quan, tổ chức, đơn vị nào.

- Nội dung tố cáo, thẩm quyền giải quyết.

- Quá trình xem xét, giải quyết, xử lý của cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền (nếu có): cơ quan, tổ chức, đơn vị đã giải quyết, kết quả giải quyết, hình thức văn bản giải quyết, quyết định xử lý của cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền. 

- Yêu cầu của người tố cáo;

- Lý do tố cáo tiếp và những thông tin, tình tiết, bằng chứng mới mà người tố cáo cung cấp trong trường hợp tố cáo tiếp.  

     Bước 3.2.  Xử lý đơn 

 

- Xử lý tố cáo thuộc thẩm quyền: Nếu tố cáo thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức, đơn vị mình và đủ các điều kiện thụ lý thì người tiếp công dân báo cáo thủ trưởng cơ quan, tổ chức, đơn vị để thụ lý giải quyết. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 29 Luật Tố cáo năm 2018, các điều kiện để thụ lý tố cáo bao gồm:

1. Tố cáo được thực hiện theo quy định tại Điều 23 của Luật Tố cáo năm 2018;

2. Người tố cáo có đủ năng lực hành vi dân sự; trường hợp không có đủ năng lực hành vi dân sự thì phải có người đại diện theo quy định của pháp luật;

3. Vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết tố cáo của cơ quan, tổ chức, cá nhân tiếp nhận tố cáo;

4. Nội dung tố cáo có cơ sở để xác định người vi phạm, hành vi vi phạm pháp luật.

Trường hợp tố cáo xuất phát từ vụ việc khiếu nại đã được giải quyết đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật nhưng người khiếu nại không đồng ý mà chuyển sang tố cáo người đã giải quyết khiếu nại thì chỉ thụ lý tố cáo khi người tố cáo cung cấp được thông tin, tài liệu, chứng cứ để xác định người giải quyết khiếu nại có hành vi vi phạm pháp luật.

Việc đề xuất thụ lý đơn tố cáo được thực hiện theo mẫu.

- Xử lý đơn tố cáo không thuộc thẩm:

- Trường hợp đơn tố cáo không thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức, đơn vị thì người tiếp công dân hướng dẫn người tố cáo đến tố cáo với cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền giải quyết.

- Trường hợp tố cáo thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức, đơn vị cấp dưới trực tiếp nhưng quá thời gian quy định mà chưa được giải quyết thì người tiếp công dân báo cáo thủ trưởng cơ quan, tổ chức, đơn vị để ra văn bản yêu người có thẩm quyền giải quyết tố cáo báo cáo về quá trình giải quyết tố cáo, lý do về việc chậm giải quyết tố cáo và xác định trách nhiệm của người giải quyết tố cáo.

- Trường hợp tố cáo về hành vi phạm tội thì người tiếp công dân báo cáo thủ trưởng cơ quan, tổ chức, đơn vị để làm thủ tục chuyển đơn và các tài liệu liên quan đến cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền giải quyết.

- Trường hợp vụ, việc tố cáo hành vi vi phạm pháp luật gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích Nhà nước, cơ quan, tổ chức, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân thì người tiếp công dân phải kịp thời báo cáo, tham mưu, đề xuất để thủ trưởng cơ quan, tổ chức, đơn vị áp dụng biện pháp theo thẩm quyền nhằm ngăn chặn hoặc thông báo cho cơ quan chức năng để có biện pháp ngăn chặn xử lý kịp thời. 

- Trường hợp tố cáo đối với đảng viên vi phạm quy định, điều lệ của Đảng được thực hiện theo quy định của Ban Chấp hành Trung ương và hướng dẫn của Ủy ban Kiểm tra Trung ương; Tỉnh ủy, Thành ủy, Đảng ủy trực thuộc Trung ương.  

- Xử lý đối với các trường hợp không đủ điều kiện thụ lý: Tố cáo thuộc các trường hợp không đủ điều kiện thụ lý theo Luật Tố cáo thì người tiếp công dân không tiếp nhận, đồng thời giải thích cho người tố cáo biết, trong trường hợp cần thiết có thể ra thông báo từ chối tiếp công dân.  

- Xử lý tố cáo xuất phát từ việc khiếu nại không đạt được mục đích: Đối với tố cáo xuất phát từ việc khiếu nại không đạt được mục đích, công dân chuyển sang tố cáo đối với người giải quyết khiếu nại nhưng không cung cấp được thông tin, tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho việc tố cáo của mình thì người tiếp công dân giải thích, hướng dẫn công dân thực hiện việc khiếu nại theo quy định của Luật khiếu nại; không tiếp nhận hoặc không đề xuất thụ lý để giải quyết tố cáo. Nếu công dân không chấp hành thì ra thông báo từ chối tiếp công dân.  

BTCD.



[1] Trung tâm Từ điển học (2009), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, tr.1271.

[2] Trung tâm Từ điển học (2009), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, tr.692.

[3] Phạm Hồng Thái, chủ biên (2003), Pháp luật về khiếu nại, tố cáo, Nxb TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh, tr.30.

 





Các tin khác

Hỗ trợ trực tuyến
 ĐT : 0222 3875002
Fax : 0222 3874300
bantiepcongdanbacninh@gmail.com
Trao đổi - Góp ý
Liên kết